Tuesday, August 30, 2011

Zhang Yongle - Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc? “Ðộc thư” và giới trí thức Trung Quốc (phần cuối)

Hoài Phi dịch

Viễn kiến và ký ức

Những bài viết về nhiều mặt văn hoá được tuyển chọn trong tập Ba, Một cái nhìn thu hút - gồm khoảng 41 bài viết về sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc, phim ảnh và âm nhạc. [1] Tựa đề này xuất phát từ bài viết của Zhang Chengzhi, một người Trung Quốc theo đạo Hồi, phê bình gay gắt những hoạt động của National Geographic ở Afghanistan. Năm 2002, tạp chí này uỷ thác cho một chương trình tìm kiếm một phụ nữ người Afghanistan có đôi mắt xanh; ảnh của cô xuất hiện trên trang bìa National Geographic mười sáu năm trước, khi đất nước cô đang là chiến trường cho cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai siêu cường. Họ tìm thấy cô, giờ là một phụ nữ trung niên, và chụp một loạt ảnh mới. Zhang biện luận là cái nhìn của cô, trong đó bộc lộ sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi, buồn thương và nghi kỵ, cưỡng lại quyền lực diễn giải (interpretative power) của những kẻ xâm lược đế quốc, không chỉ gồm lính Mỹ, mà còn cả các phóng viên nhiếp ảnh. Ví dụ này có thể đại diện cho đường hướng phê phán chung của các bài viết này: mục đích là để diễn giải “cái nhìn thu hút” đã bị nền văn hoá thống trị che phủ. Mặc dù các tiểu luận viết về các thể loại và các hình thức nghệ thuật khác nhau, chúng cùng chia sẻ một viễn cảnh: hình ảnh, hình dáng và nhịp điệu không chỉ đơn giản là chuyên chở giá trị thẩm mỹ, mà còn có thể phơi bày những mối quan hệ xã hội trong những bối cảnh lịch sử đặc thù. Các tác giả của Ðộc thư đặt vấn đề: ai đang nói, nói thế nào, và về cái gì; ai đang nghe hay đang theo dõi? Câu hỏi của họ làm sáng tỏ những giả định, những sự kìm nén hoặc nổi loạn đằng sau các tác phẩm nghhệ thuật. Họ bàn luận về phong trào phim tài liệu mới ở Trung Hoa, về kiến trúc Liên Xô, về thiết kế của Bauhaus, về điêu khắc trong thời kỳ cách mạng, về bộ phim Không thiếu một của Trương Nghệ Mưu, về Thế giới của Giả Chương Kha, về phim Ðài Loan đương đại, về âm nhạc Trung Hoa trong Cách mạng Văn hoá và đương đại. Một ví dụ tốt là bài viết của Lü Xinyu năm 2004, phê bình West of the Tracks (Phía Tây đường xe lửa), một bộ phim tài liệu đầy tính sử thi về sự suy thoái của nền công nghiệp nặng ở miền Tây bắc Trung Quốc. [2] Bắt đầu bằng việc mô tả sinh động một số đoạn then chốt trong phim và phân tích nghệ thuật kể của thể loại phim tài liệu, Lü điểm lại toàn bộ lịch sử ý thức giai cấp công nhân Trung Hoa từ khi mới nổi lên cho đến khi lụi tàn. Bằng việc phê phán chủ nghĩa Marx chính thống, bà nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh công nông: trong một đất nước nửa thuộc địa như Trung Hoa, nông dân là chủ lực của cách mạng; thế hệ công nhân ngành công nghiệp nặng đầu tiên (“giai cấp lãnh đạo”) cũng xuất phát từ nguồn gốc nông dân. Ngày nay, bi kịch là cả công nhân và nông dân đều bị cho ra rìa; Lü hàm ý là nếu muốn được giải phóng, cần có một liên minh giữa hai giai cấp này. Lý luận của bà được minh hoạ bằng việc phân tích sâu bộ phim tài liệu. Không phải tất cả mọi tác giả đều đồng ý với quan điểm cấp tiến của Lü; nhiều người chia sẻ lý thuyết tiếp cận của các đồng nghiệp Tây phương, bao gồm lý thuyết hậu thực dân, nữ quyền luận và lý luận của Edward Said phê phán phương đông học. Các học thuyết này cũng không phải vừa mới được du nhập và Trung Hoa: Những cuộc gặp gỡ đầu tiên của Ðộc thư với (lý thuyết của) Foucault diễn ra từ giữa thập niên 1980. Nhưng vào thời điểm ấy, việc đó mới chỉ là giới thiệu những tư tưởng mới. Một cái nhìn thu hút cho ta thấy những lý thuyết này giờ đây đã được giới trí thức Trung Hoa đồng hoá tới mức độ nào.

Ðền thờ các danh nhân

Chính tập thứ năm của tuyển tập, Không chỉ để kỷ niệm, đã bảo tồn tốt nhất tính liên tục với Ðộc thư cũ. [3] Nó tiếp nối truyền thống nổi tiếng của tạp chí này là đăng hồi ký, tiểu sử và chân dung của các học giả và trí thức, trong số đó có Lương Khải Siêu (1873-1929), một trong những nhà tư tưởng hàng đầu của phong trào Cải cách Bách nhật năm 1898; nhà giáo dục Thái Nguyên Bồi (1868-1940); Trần Ðộc Tú (1879-1942), sáng lập viên của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là biên tập của tờ tạp chí Tân Thanh niên; nhà Nho học Cô Hồng Minh (1857-1928); nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa cổ đại Trần Dần Khác (1890-1940); nhà biên sử Tiễn Bá Tán (1898-1968); triết gia Phùng Hữu Lan (1895-1990) và nhà văn Vương Tiểu Ba (1952-1997). Trong tập này cũng có một cuộc thảo luận hữu ích của cộng đồng trí thức tại Southwestern United University (Ðại học Liên hiệp Tây Nam) thời điểm 1938-1946, khi ba trường đại học lớn ở miền bắc (Trung Quốc) phải tản cư để tránh cuộc bao vây của quân đội Nhật.

Mặc dù vậy, điều đáng lạ là hai nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 20 là Lỗ Tấn (1881-1936) và Hồ Thích (1891-1962) đều vắng mặt trong tập sách, bất chấp thực tế là Ðộc thư đã từng đăng khá nhiều bài viết về họ trong giai đoạn này. Ông Wu Bin, người biên tập cuốn sách, không đưa ra lời giải thích nào. (Cần lưu ý là mặc dù Uông Huy và Hoàng Bình là chủ biên bộ Ðộc thư tinh tuyển, có một số tập do các biên tập viên khác chịu trách nhiệm; Wu Bin, người phụ trách tập Không chỉ để kỷ niệm, trở thành tổng biên tập của Ðộc thư sau khi Uông và Hoàng bị bãi nhiệm.) Sự im lặng (không có bài về Lỗ Tấn và Hồ Thích) này khá kỳ lạ, nhưng không hẳn hoàn toàn không thể hiểu nổi. Trong xã hội Trung Quốc đương đại, Lỗ Tấn là anh hùng của giới trí thức cánh tả, còn cánh hữu thì đề cao Hồ Thích; nghiên cứu về cả hai nhà tư tưởng này đều rất phức tạp và tinh tế. Nếu tập sách bao gồm cả (những bài viết về) Hồ Thích và Lỗ Tấn, những độc giả nhạy cảm hẳn sẽ tính toán mức độ cân nhắc được chia cho mỗi vị như thế nào. Sẽ không dễ dàng nói hết được tầm quan trọng lịch sử của hai nhân vật phức tạp đến như vậy chỉ vẻn vẹn trong một bài tiểu luận mà không gây ra những sự bất đồng gay gắt về chính trị hay học thuật; vì vậy, có thể việc không đăng lại những bài viết về họ thì an toàn hơn.

Ðộc thư bắt đầu quan tâm đến việc thuật lại cuộc đời của những trí thức (quan trọng – ND) từ cuối thập niên 1970. Vào thời điểm đó, khi kinh nghiệm về cuộc Cách mạng Văn hoá vẫn còn đang tươi rói, những chân dung như vậy thường nhuốm màu ký ức của chấn thương chính trị và bộc lộ niềm khát khao cho một không gian cá nhân tự trị. Chúng thường do các nhà thơ, học giả văn chương và các trí thức nổi tiếng trong Ðảng Cộng sản Trung Quốc viết, và thường đạt tới một chuẩn mực rất cao. Ðộc thư trở nên nổi tiếng với thể loại này vào thập niên 1980; không có một tạp chí nào khác đăng bài ở tầm mức có thể so sánh được. Loạt bài này đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức tập thể của giới trí thức mới.

Trong thập niên 1996-2005, thể loại tiểu sử vẫn là một phần quan trọng của tạp chí, nhưng không còn nổi bật như trước nữa. Một lý do quan trọng cho điều này là những thay đổi xã hội rộng lớn hơn đã diễn ra kể từ những năm 1980. Giới trí thức, từng là một bộ phận dễ bị công kích trong giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa, vượt lên chiếm một vị trí cao trong hệ thống cấp bậc của xã hội hậu chủ nghĩa xã hội; những chấn thương thời cách mạng bị bỏ lại phía sau. Ðây là nền tảng mà độc giả cần nhớ khi đọc tập sách, vì nó không trực tiếp phản ánh những nét thay đổi này. Các bài tiểu luận vẫn được viết bằng lối văn tao nhã, và trong hầu hết các trường hợp, tác giả hết sức thông cảm với các nhà tư tưởng mà họ viết bài tưởng niệm: các đánh giá mang tính phê phán khá hiếm. Thể loại này vẫn được dùng để tạo ra một “ngôi đền danh nhân” trí thức, một bảo tàng của các kiểu mẫu để (trí thức) đương đại có thể so sánh, đánh giá hoặc khẳng định căn cước và cam kết (dấn thân cho một lý tưởng nào đó - ND).

Hội thoại

Tập cuối, Cùng với Ðộc thư, đăng lại những cuộc tranh luận quan trọng nhất trên tạp chí này trong thập niên vừa qua, [4] bao gồm một diện rộng về mặt đề tài: khảo cổ học và ngành biên sử Trung Hoa, hình ảnh nông thôn Trung Quốc đương đại, toàn cầu hoá, luật pháp, cải cách hệ thống đại học, nữ quyền luận, môi trường, chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố, v.v… Một số là văn bản ghi lại các hội nghị chuyên đề do Ðộc thư tổ chức; những bài khác là tập hợp nhiều tiểu luận về cùng đề tài. Tập Sáu cho độc giả thấy được phạm vi mà Ðộc thư đề ra chương trình nghị sự tranh luận trong thời đại của những thay đổi mạnh mẽ này. Phần lớn các chủ đề mang tính chuyên môn khá cao, nhưng chúng đều chia sẻ một đường hướng chung: giải cấu trúc hình ảnh được mã hoá của cái hiện đại (modernity) vốn được xây dựng trên một lịch sử tuyến tính và lấy phương Tây làm trung tâm; để tìm hiểu động lực của lịch sử Trung Hoa và các thực hành đương đại; và để thăm do khả năng của dân chủ, bình đẳng và công lý trong bối cảnh hiện thời.

Tập này bao gồm sự can thiệp quan trọng của Ðộc thư trong những cuộc luận chiến xung quanh những đề xuất cải cách hướng về thị trường của Ðại học Bắc Kinh. Bản kế hoạch do một nhà kinh tế học thảo ra vào năm 2003 nhằm giới thiệu nguyên tắc cạnh tranh, khuyến khích các phân khoa thuê giảng viên từ nước ngoài thay cho các học giả trong nước, và định lượng hệ thống đánh giá (chất lượng) để sao chép lại những quy tắc tiêu chuẩn về học thuật của Mỹ. Kế hoạch này bị học giả các ngành khoa học xã hội và nhân văn phê phán kịch liệt. Hội thảo chuyên đề về dự án này do Ðộc thư tổ chức đã nâng cuộc tranh luận lên một tầm mức mới. Tại hội thảo, các học giả hàng đầu của Bắc Kinh và những nơi khác đã biện luận là đại học cần là một thể chế cho việc theo đuổi tự do và sáng tạo tri thức, và đặt vấn đề với sự thiên vị (thị trường) của các nhà kinh tế học đằng sau dự thảo nói trên.

Vào năm 2005, Ðộc thư tổ chức một hội thảo chuyên đề khác về sự khủng hoảng của ngành y học cổ truyền Trung Hoa trong hệ thống y tế quốc gia. Hội thảo này có sự tham gia của các học giả và các thầy thuốc nổi tiếng trong ngành y học cổ truyền, trong đó có Lu Guangxin, thuộc Viện Hàn lâm Y học Trung Hoa (Trung Quốc Trung Y Khoa học Viện); Cao Dongyi, thuộc Viện Trung y Hà Bắc; và các nhà khoa học khác, trong đó có nhà hoá học Zhu Qingshi, thuộc Ðại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc; rồi các học giả ngành nhân văn chẳng hạn như nhà lý luận về pháp luật Deng Zhenglai. Cuộc thảo luận bao gồm cả những vấn đề về chính sách và những nền tảng khác biệt về nhận thức luận và phương pháp luận giữa Tây y và Trung y, bảo vệ những chỉ trích cho rằng Trung y “phản khoa học”. Họ cũng biện luận là thuốc cổ truyền Trung Hoa, rẻ hơn so với thuốc Tây rất nhiều, có thể giúp phát triển cho bảo hiểm của hệ thống y tế quốc gia. Vấn đề ngầm ẩn trong cuộc tranh luận này là lịch sử sóng gió mới đây của Trung Quốc. Trong Cách mạng Văn hoá, Mao Trạch Ðông khuyến khích y học cổ truyền và sử dụng nó để xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khoẻ khá thành công. Nhưng sau hai thập niên cải cách kinh tế (theo hướng) thị trường, giá cả dịch vụ chăm sóc y tế trở nên quá đắt đỏ so với túi tiền của dân thường. Mặc dù các nhà diễn thuyết không đưa ra sự so sánh trực tiếp như vậy, độc giả cân nhắc những ẩn ý của cuộc tranh luận và tự đánh giá tầm quan trọng của di sản xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Vai trò của Ðộc thư, một lần nữa, là cung cấp kiến thức chuyên môn và nhận xét phê bình trí thức ở tầm cao cho tranh luận công. Cùng với Ðộc thư cũng lại bao gồm cả bài viết của các học giả quốc tế như Habermas, Derrida, Perry Anderson, Mark Selden, Michael Hardt và Antonio Negri.

Không phải tất cả các tác giả nước ngoài có bài trên Ðộc thư thời hai tổng biên tập Uông và Hoàng đều được chọn in lại trong 6 tập này, chẳng hạn như bài viết của Alasdair MacIntyre và Immanuel Wallerstein. Nguyên nhân có thể vì những đề tài được chọn không bao gồm các cuộc tranh luận về đạo đức và cộng đồng, hay về lịch sử khoa học xã hội; có thể các nhà biên tập thấy rằng cách đặt và giải quyết các vấn đề này của Ðộc thư chưa đủ chín chắn để có thể đưa vào tuyển tập. Tuy nhiên, một số đề tài quan trọng được thảo luận trên Ðộc thư trong thập niên này rõ ràng bị gạt ra vì những lý do khác, chẳng hạn như cuộc tranh cãi gây nhiều ảnh hưởng về Che Guevara. Vào năm 1998, tạp chí đăng bài tưởng niệm Che của Suo Sa, một nhà Mỹ-Latin học. Bài viết này đã gợi cảm hứng trực tiếp cho vở kịch do Huang Jisu và Zhang Guangtian dựng, trình diễn vào năm 2000. Cả bài viết của Suo Sa và vở kịch về Che Guevara đã gây ra một cuộc tranh luận căng thẳng trong giới trí thức Trung Hoa: một số người coi đây là việc gợi lại ngược đời về quá khứ cách mạng mà Trung Hoa đương đại đã chối bỏ một cách đúng đắn; những người khác lại coi đó là cách tái-chứng minh tính chính đáng cuộc tranh đấu cho giải phóng. Ðộc thư đăng một số bài viết có quan điểm khác nhau, tranh luận về ẩn ý của biểu tượng chính trị này trong bối cảnh hiện thời. Nếu Ðộc thư tinh tuyển chọn cả những bài đó và đăng trong tập Tái dựng lại hình ảnh của chúng ta trên thế giới, hoặc tập Một cái nhìn thu hút, thì hẳn sẽ rất hữu ích cho độc giả. Các bài viết đó cung cấp một bức tranh rõ nét về việc trí thức Trung Hoa xem xét di sản cách mạng của đất nước và việc đương đại tách khỏi quá khứ ấy như thế nào. Các nhà biên tập có thể có những quan ngại riêng của họ, dù về mặt chính trị hay kỹ thuật, về chủ đề này; nhưng từ quan điểm của độc giả, những bài viết đó chắc chắn sẽ làm tăng giá trị toàn bộ tuyển tập.

Những bài viết nhạy cảm về chính trị khác cũng bị loại bỏ, trong đó phải kể đến bài “Viết sử: Làng Gao” của nhà xã hội học Gao Mobo, gây nhiều tranh cãi nhất trong thời điểm này. Bài viết phân tích ảnh hưởng của Cách mạng Văn hoá tới sự phát triển của làng này và đặt ra câu hỏi: ai là người chi phố tường thuật về Cách mạng Văn hoá? Ðộc thư in bài này nhằm mục đích mở ra các quan điểm nhiều chiều về cuộc Ðại Cách mạng Văn hoá của Giai cấp Vô sản [无产阶级文化大革命] và hi vọng gây ra tranh luận. Nhưng người ta coi bài “Làng Gao” thách thức sự đồng thuận chính trị giữa trí thức và quan chức của đảng kể từ thập niêm 1980 rằng Cách mạng Văn hoá là một thảm hoạ toàn diện. Mỉa mai thay, không phải các quan chức mà chính các trí thức cấp tiến đã phát hiện ra luồng nguy hiểm trước, và, tuy không nhằm chỉ trích nghiên cứu của Gao, đã phê bình ông “thiếu tính đúng đắn chính trị.” [5] Sau đó, các quan chức kiểm duyệt can thiệp và cấm tiếp tục thảo luận về đề tài này trên Ðộc thư. Ẩn ý rõ ràng của động tác này là không thể đưa bài “Làng Cao” vào Ðộc thư tinh tuyển: tính chính đáng của kỷ nguyên cải cách kinh tế (theo hướng) thị trường là dựa trên, có lẽ ở một mức độ lớn đáng ngạc nhiên, phán quyết phủ nhận Cách mạng Văn hoá; (do đó) hiển nhiên việc đưa ra một bức tranh chỉ hơi tích cực về thời kỳ đó một chút thôi cũng đe doạ phá hoại nghiêm trọng công cuộc cải cách.

Bối cảnh phê bình

Bất chấp những nhược điểm này, 6 tập Ðộc thư tinh tuyển vẫn là một tuyển tập có giá trị. Việc sắp xếp theo chủ đề cho phép những tập sách này phản ánh một cách có trật tự hơn đường hướng chính trị và học thuật của tạp chí trong thời gian vừa qua. Mặc dù các tác giả có lập trường chính trị khác nhau, nhưng hồi đáp của các tổng biên tập trước con đường phát triển hiện nay của Trung Quốc được bộc lộ rõ ràng qua chương trình nghị sự tổng thể. Tuy nhiên, đối với những người vẫn ôm ấp niềm tin vào những cái tốt của tiến trình hiện đại hoá với thị trường tự do (hay những biến thể của nó), những vấn đề mà Ðộc thư đặt ra chắc chắn khiến họ bực mình: trong phạm vi của tạp chí này, tiêu chuẩn mã hoá của tiến trình hiện đại đã sụp đổ. Thay vì (niềm tin rằng) thị trường toàn cầu, tự do, dân chủ, nhân quyền và khoa học tay trong tay tiến bước, (người đọc thấy rằng) có thể có những xung đột về quyền lợi nghiêm trọng giữa các giá trị này. Con đường đơn nhất của hiện đại hoá, phỏng theo kinh nghiệm của phương Tây, không còn được xem như phương thuốc thích hợp cho bệnh lý Trung Hoa nữa. Vào thập niên 1980, trí thức thường dùng mô hình này để phê phán cả tình trạng đình trệ của Ðế chế Trung Hoa lẫn bạo lực phá hoại của Cách mạng; nhưng dưới thời Uông và Hoàng, những phê phán như vậy nói chung bị cho ra rìa. Ðộc thư chuyển sang tập trung vào những suy nghĩ về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, điều kiện chính trị - xã hội của thị trường, và động lực của lịch sử Trung Hoa. Với những người còn vững tin vào sự đồng thuận trước đây, việc nhận ra rằng quyền sắp đặt chương trình nghị sự của Ðộc thư không còn nằm trong tay họ nữa quả là chẳng vui vẻ gì.

Vì vậy, việc có những trí thức ăn mừng việc chấm dứt “kỷ nguyên Uông và Hoàng” của Ðộc thư không phải là điều khó hiểu. Một số người từng công khai quy kết Uông chống lại hiện đại hoá, và do đó là “phản động”, dẫn dắt Ðộc thư đi sai đường. Những người khác, nhận ra rằng lý thuyết hiện đại hoá là một hệ thống đã lỗi thời ngay cả ở phương Tây, bày tỏ sự bất mãn của họ một cách gián tiếp hơn, hoặc dựa trên những điều phi-chính trị: Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng không còn giữ được truyền thống văn xuôi tao nhã nữa, và trở nên quá khó hiểu; tạp chí không còn là “không gian chung” hay “ngôi nhà tinh thần” cho toàn bộ giới trí thức nữa. Ðiều này đúng tới mức độ nào? Như trên đã nói, tập năm Không chỉ để kỷ niệm bao gồm những bài viết mang tính văn chương tao nhã bậc nhất. Các tuyển tập khác cũng có nhiều bài viết hay, cho thấy rằng ý định của hai tổng biên tập là duy trì phong cách của Ðộc thư trong quá khứ. Tuy nhiên, nội dung của một số bài viết khiến các tác giả của chúng không thể không dùng những từ vựng cần thiết để viết về những vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội đương đại. Không giống như hồi ký, các tiểu luận này thường có xu hướng phân tích, và thường có tính lý thuyết rất cao.

Một lần nữa, sự thay đổi về phong cách này cần được hiểu trong bối cảnh thay đổi về chuyên ngành diễn ra ở Trung Quốc trong thập niên vừa qua. Vào những năm 1980, trí thức đọc đủ mọi loại sách mà không mấy ý thức về ranh giới giữa các chuyên ngành; sang thập niên 1990, họ không thể không chú ý đến những ranh giới này nữa. So với văn học, các ngành khoa học xã hội mới dường như có một ngưỡng tri thức cao hơn rất nhiều: một độc giả trung bình có thể không hiểu nổi ngôn ngữ kinh tế; nhiều thuật ngữ mới được dịch sang tiếng Hán. Do vậy, việc duy trì phong cách tao nhã như trước thật không dễ dàng. Trong cuộc tranh luận gần đây, những người chỉ trích Uông và Hoàng diễn giải sự khác nhau về phong cách này là triệu chứng của việc hai tổng biên tập cắt đứt với truyền thống văn xuôi cổ điển của Ðộc thư. Trên thực tế, những phàn nàn về khả năng đọc được (readability) đã có từ giữa thập niên 1980, khi Ðộc thư bắt đầu giới thiệu lý thuyết phương Tây. Ðể bắt kịp với những thay đổi trí thức mau chóng trong thời kỳ này hiển nhiên là điều khó khăn với những thói quen đọc cũ. Nhưng cũng có những nhân tố không thể chối cãi được về những khác biệt nói chung: phần lớn các trí thức thế hệ Uông và Hoàng không được hưởng một nền giáo dục có hệ thống về các trước tác kinh điển của Trung Quốc, bị bãi bỏ sau khi Ðảng Cộng sản lên cầm quyền vào năm 1949. Một số trí thức lớn tuổi hơn như Fei Xiaotong chẳng hạn, được đào tạo ở các trường đại học phương Tây, nhưng vì được học hết các tác phẩm kinh điển trước khi ra nước ngoài, nên họ vẫn có thể viết được theo lối văn (cổ) tao nhã. Thế hệ trẻ hơn không hề có nền tảng đó để cân bằng với ảnh hưởng đột ngột của ngôn ngữ phương Tây. Nhưng đây là một hạn chế về kết cầu mà các nhà biên tập buộc phải cố giảm thiểu. Với bằng chứng là các tập sách này, có lẽ phải nói rằng Uông và Hoàng đã gắng hết sức mình để (biên tập) khiến tạp chí có thể dễ đọc hơn mà vẫn không bị biến thành lối văn bình dân. Ðộc thư hiếm khi đăng những tiểu luận nghiên cứu quá chuyên ngành, và khuyến khích tác giả viết để cho độc giả bình thường (không chuyên) có thể hiểu được. Các bài phân tích thường được đăng cùng với hồi ký hay những bài viết ngắn cho cân bằng.

Xu hướng im lặng?

Trí thức Trung Quốc cấp tiến cũng đưa ra những hình thức chỉ trích khác đối với tạp chí; phần lớn số này sống ở bên ngoài Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: rằng mặc dù Ðộc thư đã chọn một lập trường mạnh mẽ chống lại những chính sách kinh tế tân-tự do (neo-liberal) thiếu bình đẳng của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, tạp chí này thận trọng hơn rất nhiều trong việc đưa ra những phê bình chính trị về đặc tính đàn áp của chính phủ. Theo quan điểm của những nhà phê bình này, nhiệm vụ đầu tiên của giới trí thức là đấu tranh với chế độ để giành quyền tự trị trí thức. Ðiều không may là, tuy tất cả có thể đồng ý trên nguyên tắc về việc khao khát một nền tự trị như vậy, thậm chí ngay cả một số những trí thức cổ vũ cho điều đó hình như vẫn còn mang não trạng lấy nhà cầm quyền làm trung tâm (regime-centred), bằng cách kêu gọi giới quan chức trừng phạt các đối thủ trí thức của họ. Ðộc thư là nạn nhân của lối tiếp cận kiểu này.

Về câu hỏi rộng hơn, đúng là các tổng biên tập Uông và Hoàng thận trọng về chính trị trong một số mặt nào đó: việc loại bỏ - các bài viết về Che Guevara hay “Làng Gao” - khỏi bộ Ðộc thư tinh tuyển như đã nói ở trên, minh hoạ cho điều này. Tuy nhiên, nói rằng Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng không đóng một vai trò nào trong việc phê bình chế độ chuyên quyền là sai. Chẳng hạn, nhà phê bình cấp tiến nổi tiếng Qin Hui (được phỏng vấn trên New Left Review 20), thường xuyên tham gia đóng góp cho tạp chí thời Uông và Hoàng làm tổng biên tập và bài viết của ông cũng được đưa vào tuyển tập. Các trí thức cấp tiến nổi tiếng khác như Qian Liqun (sử gia nghiên cứu văn học Trung Quốc), He Qinglian (nhà báo, hiện đang sống lưu vong chính trị), Xu Ben (một nhà văn sống ở Mỹ, hiện đang nghiên cứu về Hannah Arendt) và Li Shenshi vừa qua đời cách đây không lâu. Sau khi Uông và Hoàng bị bãi nhiệm, Qian Liqun tuyên bố tại một hội thảo chuyên đề là ông lấy làm tiếc về việc này và kêu gọi trí thức đoàn kết lại trong cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận.

Việc tóm tắt vấn đề ở đây cũng giống như san phẳng một cảnh quan trí thức vốn rất nhiều cấp độ màu sắc khác nhau: trong cuộc tranh luận này, có nhiều luận điểm tinh tế và trùng hợp nhau, vượt xa nhãn hiệu “phe tân tả chống lại chủ nghĩa cấp tiến (liberalism)” mà người ta gán cho nó vào cuối thập niên 1990. Tuy nhiên, công bằng mà nói, tờ Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng tập trung chủ yếu vào việc phơi bày logic kinh tế - chính trị của liên minh giữa tư bản với một nhà nước vừa áp chế-vừa say mê chủ nghĩa phát triển. [6] Nhiều người chỉ trích tạp chí này tin rằng nhà nước có vấn đề, nhưng tư bản thì không. Vì vậy, theo quan điểm của họ, Ðộc thư phê bình tư bản quá nhiều, và tấn công nhà nước quá ít; đây chính là nguồn gốc của lập luận này.

Quan niệm cho rằng Ðộc thư từng là “ngôi nhà chung” cho toàn bộ giới trí thức Trung Hoa cũng chỉ mới nổi lên gần đây. Như đã đề cập ở phần trên, trong những năm 1980, Ðộc thư không phải là diễn đàn duy nhất cho đối thoại; có khá nhiều tạp chí khác cũng có tầm ảnh hưởng không kém. Nhưng ở đây cũng vậy, cần lưu ý đến mối quan hệ của giới trí thức với những thay đổi trong xã hội. Sự đồng thuận của thập niên 1980 về tiến trình hiện đại hoá đã tan vỡ, và Ðộc thư không thể tiếp tục dựa vào nó nữa. Xin nhắc lại: tạp chí này tiếp tục in tiểu luận của các tác giả có quan điểm khác nhau, bao gồm cả những nhà kinh tế học ủng hộ xu hướng thị trường tự do, chống lại những cáo buộc của He Qinglian. Ðiều khiến cho những người phê bình Ðộc thư đau đớn có lẽ không phải vì bài viết của những tác giả nghiêng về nền kinh tế thị trường không được đăng trên tạp chí này, mà là vì trong suốt thập niên vừa qua, những tác giả đó đã không thiết lập nổi chương trình nghị sự của họ.

Tiếng nói chất vấn

Người ta có thể biện luận là Uông và Hoàng có thể làm nhiều hơn để đáp ứng thị hiếu của những người vẫn vững tin vào sự đồng thuận trước đây. Nhưng không chắc liệu Ðộc thư có thể duy trì nổi hình ảnh của một “thời kỳ vàng son” mà không đánh mất chất lượng phê bình của mình trong bối cảnh phân cực rộng hơn của trí thức. Vì sự đồng thuận tư tưởng trong quá khứ dựa trên một số điều kiện không thể lấy lại được: trước tiên, đó là sự đoàn kết chưa từng thấy giữa quan chức của Ðảng và giới trí thức, có được do những ký ức còn tươi rói về Cách mạng Văn hoá; thứ hai, cấu trúc quyền lợi không có sự khác biệt trong xã hội Trung Quốc. Ngày nay, chính một bộ phận lớn công nhân và nông dân bị gạt ra lề trên con đường phát triển của Trung Quốc hiện nay cũng không còn tin vào sự đồng thuận tư tưởng này nữa. Trong bối cảnh đó, nếu Ðộc thư tiếp tục vận hành theo những giá trị của thập niên 1980 thì rõ ràng điều đó cũng đồng nghĩa với việc không nắm bắt được các thay đổi đang diễn ra. Chính vì thế mà Ðộc thư không chọn con đường duy trì “sự đoàn kết” bất khả của giới trí thức; thay vì vậy, tạp chí đặt ra những câu hỏi mới cho toàn xã hội.

Trên thực tế, nhiều vấn đề mà Ðộc thư đặt ra đã trở thành những mối quan ngại chung và thậm chí còn gây ảnh hưởng tới chính sách công. Nhà nước chỉnh sửa lại thuyết “hiệu suất là trên hết” vào năm 2004, và sự phát triển bền vững được chính thức chú ý hơn dưới khẩu hiệu mới của đảng là “phát triển khoa học”. Chi phí về y tế và an ninh xã hội được gia tăng, rồi ngân sách cho hạ tầng cơ sở nông thôn cũng vậy; thuế nông nghiệp được huỷ bỏ. Ðiều này không có nghĩa là những bất bình đẳng xã hội được hạn chế, chưa nói đến chấm dứt. Trong nhiều trường hợp, chính quyền địa phương cưỡng lại hoặc ngầm phá hoại các chính sách xã hội; với họ, việc gia tăng chỉ số GDP (tổng sản phẩm nội địa) là chỉ thị quan trọng nhất để họ có thể thăng tiến trong hệ thống quan chức. Ðiều đó biến chính quyền địa phương thành cỗ máy trục lợi. Dù các lãnh đạo chóp bu có thể muốn thay đổi điều này, nhưng nhiều nhóm có quyền lợi đã có mặt ở xã hội địa phương, nơi quyền lực nhà nước (địa phương) và tư bản hợp tác với nhau. Trong hoàn cảnh đó, các chính sách xã hội nhiều nhất cũng chỉ có thể cải thiện những điều tồi tệ đang diễn ra trên con đường phát triển chứ không thể chữa trị chúng. Tuy vậy, công bằng mà nói, những mối nguy hiểm của sự bất bình đẳng trong xã hội đã được biết đến rộng rãi, và những “thầy tu” quảng bá cho thuyết “hiệu suất là trên hết” không còn được coi là bất khả công kích nữa. Trên không gian ảo (cyberspace) của Trung Quốc, các nhà tân-cấp tiến (neo-liberal) bị chỉ trích gay gắt là quản lý cải cách tồi tệ, dẫn đến hậu quả là sự bất bình đẳng xã khủng khiếp. Người ta cũng đã đặt vấn đề với hình ảnh rực rỡ về thị trường tư bản toàn cầu và trật tự chính trị, đặc biệt kể từ khi các mặt hàng xuất khẩu của Trung Hoa vấp phải chế độ bảo hộ thương mại ở Mỹ và Châu Âu trong những năm gần đây. Ðiều này khiến cho nhiều người nhận ra rằng thế giới không phẳng. Các nhà cấp tiến giờ đây có xu hướng nói rõ là họ không thuộc trường phái tân-cấp tiến, và chú trọng hơn tới công bằng xã hội trong những bài viết của họ. Hẳn là sai lầm nếu chúng ta lờ đi ảnh hưởng của Ðộc thư trong tất cả những vấn đề này.

Nhưng những thay đổi này không hàn gắn được hố ngăn cách đang tồn tại trong giới trí thức Trung Hoa mà, ngược lại, còn làm sâu thêm. Hình thức của việc bãi nhiệm Uông và Hoàng có thể có vẻ như phi chính trị; nhưng nghiêm khắc mà nói, đây là một tiến trình chính trị bị phi chính trị hoá. Lý do kỹ thuật mà Nhà xuất bản SDX viện dẫn không thuyết phục nổi ai. Nguyên nhân thực sự nằm ở chỗ khác. Phần lớn các trí thức Trung Quốc đều dễ dàng nhận thấy ẩn ý chính trị của sự thay đổi đột ngột này. Là một doanh nghiệp nhà nước, SDX trực thuộc Tổ hợp Xuất bản Trung Quốc, nằm dưới sự lãnh đạo của Ban Tuyên truyền Trung ương của Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Các quan chức có động cơ quan trọng để thuần phục tờ tạp chí “gây rắc rối” này; vì mặc dù phong cách của Ðộc thư là ôn hoà, những tư tưởng mà nó truyền bá có khả năng gây nguy hiểm, và các trí thức tân-cấp tiến không còn nói xấu nó nữa. Có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết được điều gì xảy ra sau bức màn sân khấu (nguyên văn: trong hộp đen – ND); nhưng thậm chí ngay cả trước khi Nhà Xuất bản SDX công bố (việc bãi nhiệm) các tờ báo cấp tiến đã loan tin là Ðộc thư sẽ thay tổng biên tập, và một số những người không thích hai tổng biên tập này đã bắt đầu ăn mừng chiến thắng.

Ðiều bất ngờ là tuyển tập sáu tập này đánh dấu sự kết thúc “kỷ nguyên Uông và Hoàng” của Ðộc thư. Còn phải chờ xem con đường sắp tới của tạp chí này là gì. Vài tháng đầu sau vụ Uông và Hoàng bị bãi nhiệm, nó có vẻ như vẫn theo đường cũ. Nhưng số tháng Một năm 2008 đã có những thay đổi về bản chất, với bài viết mở đầu là “Kêu gọi một nền kinh tế thị trường theo pháp quyền”. Dưới thời hai tổng biên tập trước đây, khó có khả năng tạp chí này sẽ dùng một khẩu hiệu chính trị chính thống kiểu này làm tựa đề cho một tranh luận của trí thức. Bộ Ðộc thư tinh tuyển vẫn là một cửa sổ qua đó thế giới có thể thấy được những biến đổi xã hội của Trung Quốc trong thập kỷ đầy biến động vừa qua, và định vị những tư tưởng của giới trí thức Trung Hoa trong bối cảnh lịch sử của nước này. Giai đoạn vừa qua chứng kiến một sự đảo ngược: các nhà tư tưởng và các nhà văn trước đây từng đoàn kết do khát vọng hiện đại hoá giờ đây bị chia rẽ bởi tiến trình cải tổ và phát triển khắc nghiệt. Trước những phân hoá đau đớn này, một số người không thể không tìm nguồn an ủi bằng cách ngoái nhìn lại sự đồng thuận của những năm 1980. Với những lối nghĩ quẩn như vậy, quá khứ ngày càng giống như thời kỳ vàng son. Trong kỷ nguyên của hoài niệm, Ðộc thư tinh tuyển, 1996-2005 dội một gáo nước lạnh: “Thời kỳ vàng son” càng mất không thể cứu vãn nổi, vì giờ đây ngay cả huyền thoại cơ sở của nó cũng tan vào không khí. Với trí thức Trung Hoa, bây giờ là thời điểm họ phải đứng trên chính hai chân của mình và dũng cảm vật lộn để tự khẳng định.

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

[1]Dushu Jing Xuan, vol. iii, Bishi de Yanshen, 390 trang.
[2]Bản ngắn hơn đăng bằng tiếng Anh với tựa đề ‘Ruins of the Future’, trên New Left Review, 31, Jan–Feb 2005.
[3]Dushu Jing Xuan, vol. v, Bujin Weile Jinian, 579 trang.
[4]Dushu Jing Xuan, vol. vi, Dushu Xianchang , 469 trang.
[5]Xem tờ Nanfang Zhoumo (Phương Nam cuối tuần), 29 March 2001.
[6]Nguyên văn: oppressive-developmentalist state – ND.

Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 16.9.2008

Zhang Yongle - Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc? “Ðộc thư” và giới trí thức Trung Quốc (phần 1)

Hoài Phi dịch

Vào tháng 7 năm 2007, Ðộc thư tinh tuyển gồm 6 tập các bài tiểu luận [1] – đã được lên kế hoạch từ lâu - tuyển chọn từ Ðộc thư – có lẽ là tạp chí trí thức hàng đầu của Trung Quốc, cũng là tạp chí gây nhiều tranh cãi nhất, trong thập niên vừa qua – xuất hiện tại các tiệm sách. Mỉa mai thay, cũng vào thời điểm đó, hai tổng biên tập của tờ tạp chí hàng tháng này là Uông Huy và Hoàng Bình [2] , bị công ty mẹ là Nhà xuất bản SDX bãi nhiệm. Lý do chính thức cho việc bãi nhiệm này không mấy hợp lý: thoạt đầu, người ta nói là số lượng xuất bản bị giảm sút, mặc dù trong thực tế, dưới quyền của tổng biên tập Uông và Hoàng, số người đặt mua tạp chí Ðộc thư tăng vọt từ khoảng 60.000 lên đến hơn 100.000 độc giả. Nhà xuất bản SDX sau đó tuyên bố là họ chỉ thực thi chính sách của công ty, đòi hỏi tất cả các tổng biên tập đều phải làm việc toàn thời gian (full-time), chứ không phải chỉ làm thêm ngoài công việc giảng dạy ở trường đại học như trường hợp của Uông và Hoàng. Nhưng công ty SDX không giải thích được tại sao bỗng nhiên lại “nhớ ra” cái chính sách vốn tồn tại nhưng không hề được thực thi từ nhiều năm nay này.

Việc bãi nhiệm Uông và Hoàng đã gây ra một trận bút chiến lớn giữa các trí thức Trung Quốc: các cuộc tranh luận nổ ra trên không gian mạng, trên báo và các tạp chí về những đóng góp của Ðộc thư “thời [hai tổng biên tập] Uông và Hoàng”. Những người chống lại Uông và Hoàng biện luận rằng hai người này đã biến Ðộc thư từ một tạp chí “được sự công nhận của toàn bộ” giới trí thức Trung Quốc trong suốt thập niên 80 và đầu thập niên 90 thành diễn đàn cho “một nhóm tân-tả (new left)” nhỏ, từ bỏ truyền thống văn xuôi tao nhã của tờ tạp chí này, và chuyên môn hoá nó đến mức [độc giả] không đọc nổi. Những người ủng hộ Ðộc thư phản bác rằng chính sách biên tập của Uông và Hoàng thể hiện chính đường hướng phê bình mà trí thức nên đi theo trong thời đại của chuyển đổi xã hội mạnh mẽ, khi quá trình thị trường hoá và phát triển không đồng đều đã tạo ra những bất bình đẳng to lớn ngay giữa lòng sự tăng trưởng cao tốc. Bộ Ðộc thư tinh tuyển cho phép độc giả tự hình thành đánh giá của riêng mình về những đóng góp của tờ tạp chí này trong việc tìm hiểu và định giá những thay đổi đó. Tuyển tập cung cấp một cái nhìn khái quát về những mối quan tâm trí thức của Ðộc thư trong thập niên từ 1996 đến 2005, phản ánh những thay đổi lớn dưới thời của đồng tổng biên tập Uông và Hoàng. Với những độc giả bên ngoài Trung Quốc, tuyển tập này cũng cung cấp một cửa sổ hữu ích để tìm hiểu các cuộc tranh luận của trí thức Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trong giai đoạn này: tờ tạp chí đã gây ra rất nhiều cuộc thảo luận, trao đổi, cũng như nhiều cuộc luận chiến chính trị; và như tựa đề cho thấy, tuyển tập này bao gồm hầu như toàn bộ các tiểu luận quan trọng (đã đăng trên Ðộc thư trong thập niên đó – ND).

Thời kỳ đầu

Ðộc thư là tạp chí hàng tháng, ra đời vào năm 1979, với khẩu hiệu nổi tiếng “Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc”. Tạp chí đã xuất bản nhiều bài điểm sách, hồi ký và các tiểu luận học thuật, in những thông báo ngắn - chỉ vài trăm chữ - tới những văn bản dài cả 12.000 chữ (khoảng 7.500 chữ khi dịch sang tiếng Anh), với độ dài trung bình khoảng 4.000 ký tự (khoảng 2.500 từ). Ðầu thập niên 1980, dưới quyền của hai tổng biên tập Ni Ziming và Chen Yuan, tạp chí chủ yếu in những bài viết tao nhã của lớp học giả lớn tuổi và tiểu luận chính trị của các đảng viên có tư tưởng cởi mở. Ðộc thư không phải là diễn đàn duy nhất dành cho tranh luận của trí thức vào thời điểm đó: Nghiên cứu Lịch sửKhoa học Xã hội Trung Quốc là hai tạp chí cũng có ảnh hưởng khá lớn trong các cuộc tranh luận về những vấn đề đương đại. Ðộc giả biết đến Ðộc thư nhất là qua [việc tạp chí này đăng] các hồi ký và chân dung trí thức, cung cấp một dạng “đền thờ danh nhân” (pantheon) mà nhờ đó, giới trí thức Trung Quốc có thể xây dựng một căn cước tập thể mới.

Bất chấp nhiều khác biệt, có một sự đồng thuận ngầm trong quan điểm của giới trí thức thời đó: họ cùng chia sẻ một tâm trạng mệt mỏi sau quá khứ cách mạng gần đây và sau khát vọng hiện đại hoá đất nước, được tóm tắt lại qua khái niệm về một thời đại “tân khai sáng”, phản ánh xu hướng nghiêng về thuyết phổ quát tự do (liberal universalism), được thể hiện qua sự kiện Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Xu hướng “tân khai sáng” được biểu thị qua thuyết lấy phương Tây làm trung tâm (West-centrism), dựa trên niềm tin vào một mẫu hình lịch sử tuyến tính của quá trình hiện đại hoá, mà trong đó kinh nghiệm của phương Tây được xem là những tấm gương chính. Ðiều thú vị là nhiều bài tiểu luận trên Ðộc thư vào thập niên 1980 cũng hướng về Nhật Bản: được Mỹ giúp tái kiến thiết sau năm 1945 và tránh được những chấn thương của các cuộc cách mạng chính trị, nền kinh tế Nhật Bản đã vùng dậy thành cường quốc thứ nhì trên thế giới. Niềm ngưỡng mộ dành cho Nhật Bản được củng cố bằng một sự so sánh ngầm: ở Trung Quốc, (các cuộc) cách mạng đã ngăn cản tiến trình hiện đại hoá, khiến cho đất nước này bị tụt hậu. Khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc tự tách mình khỏi quá khứ cách mạng và đúc khuôn thành “đảng của công cuộc hiện đại hoá” sau năm 1978, nhiều trí thức cho rằng (đảng) đã quay lại đúng đường. Với Trung Quốc, nhiệm vụ cấp bách là noi theo gương của những nước phát triển và hoà nhập vào trật tự thế giới chính dòng (mainstream world order), theo sự đồng thuận thời hậu cách mạng. Tương tự như vậy, sứ mệnh vinh quang của trí thức Trung Hoa là sử dụng tiêu chí đã được mã hoá về cái hiện đại để phê bình sự phát triển, quá khứ và hiện tại của Trung Quốc.

Từ khoảng giữa năm 1985, việc giới thiệu các quan niệm và phương pháp luận Tây phương đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của Ðộc thư: lý thuyết về hiện đại hoá, ký hiệu học (semiology), hình thức học của Nga, các phân tích theo lý thuyết Foucault, các trường phái BraudelAnnales trong ngành biên sử, là những chất gây men say cho một thế hệ trí thức trẻ. Chuyển động này là một phần của làn sóng được biết đến với cái tên “cơn sốt văn hoá” của thập niên 1980, trong đó SDX đóng một vai trò tích cực; nhà xuất bản này đã in một loạt các tác phẩm dịch do Gan Yang biên tập, với đề mục, “Văn hoá: Trung Hoa và Thế giới,” nhằm mục đích giới thiệu tác phẩm của các nhà tư tưởng phương Tây một cách có hệ thống. Gan Yang khi đó là nghiên cứu sinh ở Ðại học Bắc Kinh. Một loạt ấn bản dịch thuật tương tự khác, do Jin Guantao và Bao Zunxin biên tập, cũng được Nhà Xuất bản Nhân dân Tứ Xuyên in với đề mục “Tiến vào Tương lai’. Ðộc thư đăng nhiều bài điểm sách các ấn phẩm dịch này, trong đó có tác phẩm của Nietzsch, Freud, Heidegger, Sartre và nhiều người khác. Nhưng đồng thời, nếu xem lại các số Ðộc thư vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, độc giả hầu như sẽ chẳng hề thấy được những thay đổi đang diễn ra trong xã hội Trung Quốc bên ngoài thế giới của trí thức lúc đó: sự sự tan rã của các Công xã Nhân dân, sự trỗi dậy của các doanh nghiệp ở thị trấn và làng xã, quá trình thị trường hoá nền kinh tế, việc giải tập trung hoá (decentralization) công khố, v.v…; tạp chí Ðộc thư hoạt động như một phòng khách (salon) hay một câu lạc bộ [tách biệt với xung quanh – ND].

Ðộc thư không phải chịu chính sách siết chặt sau năm 1989 như một số tạp chí anh chị em khác, và tiếp tục là một diễn đàn cho “cơn sốt văn hoá”. Thực tế là nhiều tờ tạp chí có ảnh hưởng khác trong thập niên 1980 chịu áp lực rất nặng và mất đi phần lớn sức sống trí thức, điều này khiến cho Ðộc thư càng chiếm vị trí nổi bật hơn. Thách thức lớn hơn, nếu có, với tờ tạp chí này, chính là quá trình thương mại hoá của xã hội Trung Quốc sau năm 1992. Số độc giả của các bài viết trí thức khi đó giảm xuống, và Thẩm Xương Văn, tổng biên tập tạp chí thời kỳ 1986-1996, đã chuyển hướng sang một chính sách dân tuý hơn, chọn in các bài báo dễ đọc hơn. Nhưng từ năm 1996 trở đi, sau khi Uông Huy và Hoàng Bình được mời tham gia tạp chí – ban đầu chỉ với vị trí tạm thời – sau khi Thẩm về hưu, Ðộc thư chuyển sang hướng mang tính phê bình và học thuật hơn. Hai tổng biên tập này tăng cường các bài viết về khoa học xã hội và khuyến khích việc bàn luận công khai các vấn đề kinh tế và chính trị đương đại. Họ cũng quan tâm tới việc trao đổi với cộng đồng trí thức quốc tế hơn những tổng biên tập tiền nhiệm. Dưới quyền lãnh đạo của Uông và Hoàng, Ðộc thư trở thành một tạp chí phê bình xã hội, không hợp với một số người, nhưng rõ ràng đã đặt ra những vấn đề gây được tiếng vang rộng hơn.

Thế hệ mới

Hai học giả Uông và Hoàng đại diện cho một sự thay đổi về tính chuyên nghiệp cũng như về tính thế hệ. Trong thời kỳ 1979-1996, tổng biên tập của Ðộc thư là các chuyên gia và biên tập viên trong ngành xuất bản, những người mà sự hình thành trí thức phần lớn thuộc về các lĩnh vực văn chương, lịch sử và triết học. Uông Huy và Hoàng Bình có một nền tảng học thuật chính thức hơn. Uông sinh năm 1959, thoạt đầu được biết đến như một chuyên gia về Lỗ Tấn; ông hoàn thành nghiên cứu tiến sĩ về lịch sử văn chương Trung Quốc. Cuối thập niên 1980, ông chuyển hướng quan tâm sang lịch sử trí thức. Bài tiểu luận dài của ông, “Tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề hiện đại”, được viết vào năm 1994, nhưng mãi đến năm 1997 mới in, tạo một cú sốc trong giới trí thức Trung Quốc khi đó và gây ra nhiều cuộc tranh luận nghiêm túc, do thái độ phê bình của bài viết về tính hiện đại tư bản chủ nghĩa và do cách tiếp cận lịch sử tư tưởng (Trung Quốc) thiên về lịch sử-xã hội. [3] Tác phẩm 4 tập gần đây của ông, Sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc hiện đại, nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình biến đổi của lối nghĩ truyền thống trong bối cảnh xã hội hiện đại. Uông hiện đang giảng dạy tại Ðại học Thanh Hoa và là một trong những học giả nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Hoàng Bình sinh năm 1958 và tốt nghiệp tiến sĩ ngành xã hội học tại Ðại học Kinh tế London (the London School of Economics); ông hiện giảng dạy ở Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Ông tham gia ban biên tập của một số tạp chí quốc tế, bao gồm Comparative Sociology (Xã hội học So sánh), the British Journnal of Sociology (Tạp chí Xã hội học Anh quốc) và Current Sociology (Xã hội học Hiện nay); ông đã viết về sự phát triển xã hội, về tính hiện đại và toàn cầu hoá, và – trên hết - về sự phát triển nông thôn và sự cân bằng vùng miền ở Trung Quốc. Cả hai học giả này đều có nền tảng vững chắc về lý thuyết xã hội, cho phép họ đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng về Trung Quốc đương đại. Về mặt hình thành trí thức, họ bổ sung lẫn cho nhau: Uông mạnh về văn học và lịch sử, trong khi Hoàng mạnh về khoa học xã hội thực nghiệm.

Ðiều này đại diện phần nào cho tiến trình phân hoá rộng hơn trong giới trí thức Trung Quốc vào những năm 1990. Khoa học xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong thảo luận về những vấn đề công kể từ giữa thập niên trở đi, và Uông Huy là một trong nhiều học giả chuyển từ lĩnh vực văn học sang lịch sử trí thức và xã hội trong giai đoạn này. Nhưng đường hướng của Ðộc thư cũng phản ánh một sự chia rẽ về tư tưởng rất lớn trong lòng giới trí thức từ giữa những năm 1990, khi nhiều tác giả bắt đầu phê phán con đường phát triển của Trung Quốc. Lập trường gây tranh cãi rất lớn này mau chóng được dán nhãn “tân tả” hay “hậu hiện đại”. Cả hai nhãn đều mang nghĩa tiêu cực lớn trong ngữ cảnh này: trong suốt một thời gian dài sau thập niên 1970, việc gọi một trí thức là “tả” (thay vì “cấp tiến”) gần như một scandal, bởi phần lớn giới trí thức đã từng là nạn nhân của cánh cực-tả trong Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Hậu hiện đại thậm chí còn có vẻ lạ lùng hơn: làm thế nào mà một trí thức lại có thể phê bình lý tưởng về hiện đại hoá trong một xã hội lạc hậu?

Thế nhưng sự phát triển của thập niên 1990 đã sản sinh ra những hệ quả xã hội mà trí thức của thập niên 80 hầu như không hình dung nổi. Tiếp sau diễn văn trong chuyến “thăm miền nam” nổi tiếng của Ðặng Tiểu Bình vào năm 1992, Ðảng Cộng sản Trung Quốc lao vào tiến trình cải cách, với công cuộc thị trường hoá, tư hữu hoá và hoà nhập vào trật tự thế giới tư bản, trong đó sự phát triển nhanh chóng của ngành sản xuất hướng về xuất khẩu đặt nền móng cho việc Trung Quốc trỗi dậy thành “công xưởng của thế giới”; cùng lúc đó, việc đấu giá những xí nghiệp quốc doanh, cộng với việc cắt giảm phúc lợi xã hội nhằm cân bằng những thâm hụt do việc giải thể kinh tế tập trung trong thập niên 1980, đã dẫn đến việc hàng triệu công nhân trong các xí nghiệp quốc doanh bị mất việc. Khi làn sóng tư hữu hoá tràn qua những cơ sở sở hữu tập thể ở các làng xã và thị trấn, lại có thêm hàng triệu nông dân thất nghiệp và phải di cư tới những thành phố ven biển để tìm việc. Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa miền biển và vùng sâu vùng xa ngày càng gia tăng. Ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Cái giá khá cao phải trả cho công cuộc phát triển trút lên đầu dân thường.

Chính những điều này đã chia rẽ sự đồng thuận tương đối đạt được vào thập niên 1980 của giới trí thức Trung Quốc. Chính phủ tiếp tục bám lấy thuyết “hiệu suất là trên hết” và cấm bất kỳ một thách thức công khai nào đối lập với chủ thuyết này. Các nhà kinh tế học chính dòng tạo thành một tầng lớp lãnh đạo bậc trung [4] quanh dự án tư hữu hoá và cắt giảm phúc lợi xã hội, và trong một thời gian dài, họ gần như độc quyền tranh luận trong giới trí thức nói riêng và trong xã hội nói chung. Bất kỳ vấn đề gì nảy sinh do việc tư hữu hoá và sự phát triển không đồng đều đều bị bác bỏ như một cơn nấc tạm thời, sẽ được giải quyết bằng việc thị trường hoá mạnh hơn nữa. Ðối với nhiều trí thức, sự phát triển nhanh chóng của thập niên 1990 khẳng định lòng tin tưởng của họ vào công cuộc hiện đại hoá: tư hữu hoá sẽ dẫn đến phát triển kinh tế; phát triển kinh tế đến lượt nó sẽ mang lại tự do chính trị; người ta cho rằng tiến trình Hayekian-Friedmanite này là trào lưu không thể cưỡng lại được của lịch sử thế giới. Nhưng những người khác lại lưu ý mọi người về “mặt tối” của mô hình phát triển Trung Quốc. Những tiếng nói mới được cất lên; quan niệm về hiện đại hoá của thập niên 1980 giờ ngày càng tỏ ra có nhiều vấn đề và nhược điểm. Những bất đồng về quan điểm nổi lên, và nền tảng trí thức vốn không vững chắc của sự đồng thuận cũ giờ bị phơi bày. Là một tạp chí trí thức hàng đầu, Ðộc thư không chỉ chứng kiến những biến chuyển này, mà còn đóng một vai trò quan trọng trong đó.

Bộ Ðộc thư tinh tuyển cung cấp cho người đọc một hồ sơ khá tốt về nhiều cuộc tranh luận đó và về những quan điểm phê phán mạnh được thể hiện qua những bài viết. Ngược lại với thập niên 1980, Ðộc thư “thời Uông và Hoàng” cũng cho người đọc thấy một bức tranh rõ nét về những phát triển hỗn loạn trong xã hội Trung Quốc qua những bài viết về các vấn đề đương đại. Ðộc thư không phải là nơi duy nhất dành cho những tranh luận như vậy: các tạp chí khác nổi lên trong thập niên vừa qua, gồm cả Thế kỷ 21, Chiến lược và Quản lý, và cả tờ Chân trời thiên tả hơn. Cả ba tạp chí này đều đăng những bài viết dài hơn Ðộc thư. Chính Uông Huy đã viết bài cho cả ba tờ này; tiểu luận nổi tiếng của ông, “Tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề hiện đại,” dài khoảng 35,000 ký tự, được in trên Chân trời. Nhưng Chân trời chuyên về văn học, không về khoa học xã hội; Chiến lược và Quản lý tập trung vào khoa học xã hội, không quan tâm đến nhân văn; Thế kỷ 21 mạnh về cả hai, nhưng xuất bản ở Hồng Kông và chỉ đến được với một thiểu số độc giả ở đại lục. Ðầu thập niên 1980, Thế kỷ 21 là tạp chí sẵn có duy nhất đối với những người trốn khỏi đại lục sau sự kiện [Thiên An Môn] 1989 và trở thành một nguồn tư liệu rất quan trọng. Tạp chí này đăng những cuộc tranh luận then chốt, chẳng hạn về đường hướng bảo thủ và cấp tiến trong tư tưởng Trung Quốc thế kỷ 20, và về khả năng của nhà nước Trung Quốc. Kể từ giữa thập niên 1990, khi báo chí trong đại lục lấy lại được sức mạnh của mình, tầm quan trọng của Thế kỷ 21 đã suy giảm. Về phần mình, Ðộc thư chiếm được một lợi thế quan trọng là xuất bản ở Bắc Kinh, và có một lịch sử quan hệ thân thiết với học giả trong nhiều ngành khác nhau. Nhưng những điều đó không phải là nguyên nhân chính mang lại tầm quan trọng của Ðộc thư trong thời kỳ này: sức mạnh thực sự của tạp chí này nằm ở việc nó phản ánh một cách có hệ thống những thay đổi đang diễn ra của thời đại.

Những chiến lược xã hội

Bộ Ðộc thư tinh tuyển 6 tập được sắp xếp theo chủ đề. Tập đầu tiên, Cải cách: Nhìn lại, Ðẩy mạnh về phía trước, tập trung vào những vấn đề kinh tế chính trị học, gồm 62 bài viết, được phân loại theo bốn tiểu đề: các vấn đề nông nghiệp, công cuộc cải cách các xí nghiệp quốc doanh, “vốn sở hữu và hiệu suất”, và sự phát triển bền vững. [5] Ðộc thư đáng được ca ngợi vì đã đăng thảo luận về những vấn đề nông nghiệp, khởi đầu một cuộc tranh luận trên toàn quốc. Vào thập niên 1990, chính phủ chủ yếu chỉ chú trọng đến cải cách ở thành thị, và ít để ý đến những vấn đề ở nông thôn. Việc Ðộc thư đăng bài đã báo động cho mọi người về tình trạng tuyệt vọng của nông dân, nông nghiệp và nông thôn, - thường được gọi là “tam nông” trong tiếng Trung. Một số người cho rằng nguồn gốc của vấn đề là hệ thống kép nông thôn/thành thị (dual system), trong đó, người nông dân bị phân biệt đối xử một cách có tổ chức; họ đề xuất cải cách hệ thống này để đảm bảo tính bình đẳng công dân, và gia tăng tiến trình đô thị hoá để chuyển cư dân nông nghiệp ra các thị trấn - về bản chất, đây là một chính sách theo định hướng thị trường. Những người khác bày tỏ mối hoài nghi sâu xa hơn về thị trường và về khả năng đô thị hoá của Trung Quốc. Wen Tiejun, trong bài “Những vấn đề ‘Tam Nông’” đăng năm 1999, chỉ ra rằng tình trạng nông nghiệp hiện thời của Trung Quốc xuất phát từ mâu thuẫn giữa dân số to lớn và nguồn tài nguyên nghèo nàn của nước này, và phân tích những thay đổi chính về mặt tổ chức ở nông thôn trong thế kỷ vừa qua. Xem xét từ quan điểm này, chính sách của nhà nước trong việc đẩy mạnh đô thị hoá và thị trường hoá có nguy cơ dẫn đến một “quá trình Mỹ-Latin hoá,” với những đặc điểm như tình trạng nghèo đói ở thành thị, bạo lực và bất ổn chính trị. Rồi Wen Tiejun chuyển từ những vấn đề này sang việc xem xét con đường phát triển tổng thể của Trung Quốc. Các tác giả khác có thể không chia sẻ với ông quan điểm này, nhưng họ cũng quan ngại về nhân tố rủi ro cao của thị trường có thể làm cho hoàn cảnh của người nông dân thêm trầm trọng; tất cả các tác giả đều nắm vững tình hình.

Tương tự, về đề tài cải cách các xí nghiệp quốc hữu: nhiều tác giả trên Ðộc thư nghi ngại về một chính sách tư hữu hoá thô bạo và chỉ ra rằng đổ lỗi hiệu suất thấp của SOES (Hệ thống giao dịch lệnh nhỏ) cho mỗi công hữu thôi là sai, vì thực hành quản lý cũng rất quan trọng. Việc tư hữu hoá mạnh thường gây ra tham nhũng và dẫn đến tình trạng ăn cắp tài sản công thực sự; trong những trường hợp này, việc giới thiệu hệ thống cổ phần không phải lúc nào cũng cải thiện sản lượng. Một loạt bài phản bác thuyết “hiệu suất là trên hết”, và biện luận rằng thuyết này đã chứng tỏ là một sức mạnh tự huỷ hoại. Câu hỏi “liệu kinh tế có nên bàn luận đến đạo đức không?” đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt về chính bản chất của kinh tế, trong đó cả hai phía (của cuộc tranh cãi) đều kêu gọi (đối phương) đọc lại cuốn Wealth of Nations and Theory of Moral Sentiments của Adam Smith. Vai trò của chính các chuyên gia kinh tế cũng bị xem xét kỹ: Tính thẩm quyền của họ bị đặt thành vấn đề trong bài báo “Các lý thuyết kinh tế và nghệ thuật giết rồng” của He Qinglian in năm 1996. He Qinglian là một nhà báo cấp tiến. Tác phẩm nổi tiếng của bà, Cái bẫy của hiện đại hoá, bàn về những bất bình đẳng xã hội trong mô hình phát triển của Trung Quốc. Bài báo này gây ra phản ứng dữ dội cho một số kinh tế gia, và các bài phản bác của họ cũng được in trong tập này. Ðây là một cuộc tranh luận khác mà Ðộc thư đáng tự hào: nó là cuộc tranh luận sớm nhất về đề tài này ở Trung Quốc, và là lần đầu tiên mà vị trí tri thức độc tôn của các chuyên gia kinh tế bị đặt thành vấn đề. Thậm chí ngay cả khi quan điểm của các nhà kinh tế ấy cũng được thể hiện trong tập sách này, thì bản thân chương trình nghị sự - sự bất bình đẳng xã hội, đạo đức của việc làm giàu tư nhân khổng lồ - cũng đặt ra thách thức với họ (các nhà kinh tế).

Tập sách thứ hai, Tái dựng hình ảnh của chúng ta trên thế giới, thể hiện phản ứng của Ðộc thư với trật tự quốc tế đang thay đổi, cả về chính trị và kinh tế. [6] Cuộc chiến ở Nam Tư, việc Mỹ ném bom sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới, sự kiện 9-11, cuộc xâm lược Afghanistan và Iraq tất yếu dẫn đến việc nhiều trí thức phải xem xét lại bức tranh màu hồng về trật tự thế giới do phương Tây lãnh đạo mà họ ôm ấp từ thập niên 1980. Bài “Khủng bố quốc tế và chính trị quốc tế” của Shu Chi, in tháng 11 năm 2001, phân tích là phong trào Hồi giáo chính thống (Islamic fundamentalism) bắt nguồn từ Chiến tranh Lạnh; trong khi đó, nhà thơ Huang Canran của Hồng Kông luận bàn về phản ứng của giới trí thức trước cuộc chiến Iraq và với chủ nghĩa tân bảo thủ Tây phương trong bài viết “Ðược đế chế, nhưng mất nền dân chủ”. Cuộc xâm lược Iraq đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt ở Trung Quốc, trong đó một số thành phần hữu phái tuyên bố ủng hộ cuộc chiến, còn phe tả thì phản đối.

Nhiều bài viết trong tập Hai – có 41 bài tất cả - đặt vấn đề với con đường hiện thời của toàn cầu hoá và thăm dò những khả năng lựa chọn khác, công bằng hơn. Tập Hai cũng phản ánh quan hệ tương tác ngày càng tăng giữa Ðộc thư và các trí thức khác trên thế giới: có bài đóng góp của Benedict Anderson, Chomsky, Amy Chua, Derrida, J.K. Galbraith, Habermas, Thomas Pogge và Vandana Shiva. Cũng có một cuộc tranh luận nóng bỏng về cuộc Khủng hoảng Tài chính Á châu năm 1997. Xu Baoqiang, một tác giả ở Hồng Kông, trong bài “Ðọc lại Braudel trong Cơn bão Khủng hoảng Tài chính Á châu” đăng năm 1998, biện luận rằng sự sụp đổ tài chính đã bộc lộ ra nhược điểm của nền kinh tế tân cổ điển, lý thuyết nhà nước phát triển, và những mô hình “chủ nghĩa tư bản [theo kiểu] Nho giáo”; cuộc khủng hoảng này cần được đặt trong bối cảnh “trọng tâm” của chủ nghĩa tư bản thế giới nghiêng về phía đông, theo lý thuyết phân tích kết cấu của Braudel. Trong “Từ Xã hội mở tới cuộc khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản,” Luo Yongshen, cũng từ Hồng Kông, lưu ý độc giả tới những phê bình của George Soros về thị trường cực đoan. Bài “Bóng ma phía sau điều kỳ diệu” của Benedict Anderson xem xét cuộc khủng hoảng từ góc cạnh lịch sử. [7] Khi bốn điều kiện địa-chính trị [tạo thuận lợi] cho điều kỳ diệu kinh tế Ðông Nam Á - viện trợ của Mỹ, đầu tư của Nhật, sự tự cô lập của Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và việc người Hoa di cư tới các nước Ðông Nam Á - dần dần biến mất, trong khi đó, lại không có cuộc cải cách có hiệu quả nào khác, điều kỳ diệu cuối cùng đã sụp đổ.

Những phân tích này mới mẻ đối với phần lớn trí thức Trung Quốc tại đại lục; họ vẫn chưa quen với khái niệm khủng hoảng tư bản hay những cuộc tranh luận xung quanh việc nới lỏng kiểm soát dòng lưu thông vốn; [cuộc khủng hoảng] năm 1997 cung cấp rất nhiều điều đáng suy ngẫm. Bài “Thị trường có chế định” của Jiao Wenfeng năm 2002, trích dẫn công trình của Polanyi và Braudel, biện luận rằng nền kinh tế thị trường tiền tư bản gắn chặt với xã hội địa phương, và vạch ra vai trò của nhà nước trong việc phá bỏ rào cản giữa các thị trường địa phương. “Thị trường có chế định” là thành phẩm cuối trong một quá trình chính trị-xã hội lâu dài. Những cuộc tranh luận này là phản ứng ngầm với học thuyết của Hayek (Hayekian doctrine) về một “trật tự tự phát”. Mục đích chung của tập sách này nhằm nhấn mạnh rằng thị trường không độc lập, mà vận hành trong các bối cảnh văn hoá, xã hội và chính trị đặc thù. Trật tự kinh tế thế giới không thể tách biệt khỏi chính trị thế giới. Một số bài viết chỉ ra rằng tư tưởng mậu dịch tự do che đậy đằng sau nó sự thực lịch sử là (những người đề xướng) chủ thuyết này lên nắm quyền nhờ chế độ bảo hộ và cướp bóc thuộc địa. Những người khác cho rằng con đường toàn cầu hoá hiện thời không chỉ dẫn đến việc tăng thêm ngăn cách giữa giàu và nghèo, mà còn đào sâu thêm những xung đột quốc nội về chủng tộc hoặc xã hội, như Amy Chua đã chứng minh trong cuốn The World on Fire (2004). Vấn đề chủ nghĩa khủng bố toàn cầu được xem xét dưới ánh sáng tương tự: một số đông dân chúng bị áp bức, những người hứng chịu hậu quả của việc phát triển không đồng đều, đã trở thành nguồn nuôi dưỡng chủ nghĩa quá khích. Nhìn chung, những cuộc tranh luận này đưa ra một bức tranh ảm đạm về trật tự kinh tế-chính trị thế giới; tuy vậy, ngụ ý của các bài viết này không nhằm quay trở lại với chủ nghĩa tách biệt, mà kêu gọi việc chuyển con đường toàn cầu hoá sang một hướng bình đẳng hơn.

Những nỗ lực của Ðộc thư trong việc tạo lại một chiều kích châu Á trong thế giới quan của trí thức Trung Quốc đáng được chú ý đặc biệt. Châu Á luôn hiện diện với các nhà cách mạng Trung Quốc, dù thuộc phe quốc gia hay cộng sản, trong nửa đầu thế kỷ 20, nhưng đến thập niên 1980 thì [sự hiện diện này] biến mất; đối với phần lớn trí thức của thập niên 90, thế giới về bản chất có nghĩa là Trung Quốc và phương Tây, trong đó hình ảnh của phương Tây lúc thì là đế quốc bóc lột, lúc lại là kiểu mẫu của nền văn minh hiện đại. Nước Á châu duy nhất thường được đề cập đến là Nhật Bản, và thường chỉ được đề cao do thành công về kinh tế. Hai tổng biên tập Uông và Hoàng đã thay đổi tình hình này. 30 bài viết trên Ðộc thư (dài khoảng 350 trang) in trong Tập Bốn với tựa Bệnh lý học châu Á bao gồm lịch sử quấn bện giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tình trạng nan giải của ngành biên sử Ðông Á, vấn đề Triều Tiên, cái gọi là “những giá trị châu Á”, căn cước văn hoá và chính trị của Hoa kiều, “subaltern studies” và một số đề tài khác. [8] Các tác giả - trong số đó có Sanjay Subrahmanyam, Chalmers Johnson, Samir Amin, Arundhati Roy, Partha Chatterjee, Muto Ichiyo, Mizoguchi Yuzo, Koyasu Nobukuni, Kojima Kiyoshi, Baik Young-Seo, Lee Nam Ju, Chen Lijuan, Wang Gengwu và Ma Yiren - từ Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Ðộ, Singapore, Malaysia, Mỹ và Ai Cập; bốn tác giả người Ðài Loan viết về lịch sử đảo quốc trong thời gian gần đây. Phạm vi tác giả rộng lớn này cho thấy rõ mục đích của hai tổng biên tập: không chỉ đơn giản là tái tạo chân trời “châu Á” cho giới trí thức Trung Quốc, mà còn nhằm xây dựng Ðộc thư thành một diễn đàn cho việc thảo luận quốc tế về các vấn đề châu Á – bao gồm cả tính mơ hồ và tính mâu thuẫn trong bản thân khái niệm châu Á. Như Uông Huy đã tuyên bố trên tờ Le Monde Diplomatique:

“Khái niệm [châu Á] đồng lúc mang tính thực dân chủ nghĩa và chống thực dân, bảo thủ và cách mạng, quốc gia và quốc tế (cộng sản); nó xuất phát từ châu Âu và định hình sự tự diễn giải của châu Âu; nó có quan hệ mật thiết với vấn đề quốc gia-dân tộc (nation-state) và chồng chéo với quan niệm về đế quốc; nó là một phạm trù địa lý được thiết lập trong các mối quan hệ địa chính trị.” [9]

Ðiểm tham chiếu ngầm của Bệnh lý học châu Á là sự chuyển tiếp của châu Âu từ các quốc gia-dân tộc xung đột nhau thành một liên minh chính trị và kinh tế. Trong khi [khái niệm] châu Âu với tư cách như một căn cước đã đạt được một số thực chất, thì “châu Á” vẫn là một khái niệm còn khá mơ hồ. Hai tổng biên tập có xu hướng cho rằng mặc dù một “Liên minh châu Á” với thực chất kinh tế và chính trị còn là một viễn cảnh, vẫn có thể hình dung ra một cộng đồng trí thức dựa trên các mạng lưới trí thức xuyên quốc gia. Nỗ lực của Ðộc thư ít nhất cũng khuyến khích sự hiểu biết qua lại giữa các nhà tư tưởng Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên. Chẳng hạn, nhiều trí thức Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng của Trường [phái] Kyoto và đã bắt đầu hưởng ứng. Học giả Hàn Quốc Wook-yon Lee và học giả người Nhật Yaoichi Momori công khai bày tỏ niềm tiếc nhớ của họ khi Uông và Hoàng bị mất chức tổng biên tập Ðộc thư. Cả hai đều ca ngợi đóng góp của tạp chí này cho cuộc đối thoại trí thức ở Ðông Á trong thập kỷ vừa qua.

(Còn 1 phần)

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

[1]Dushu Jing Xuan (Ðộc thư tinh tuyển), 1996-2005, Nhà xuất bản SDX, Bắc Kinh, 2007: 6 tập.
[2]Trong quá trình dịch, tôi có tra cứu được tên một số tác giả, ấn phẩm… bằng tiếng Hán. Những tên không tìm được, tôi giữ nguyên phiên âm tiếng Anh – ND.
[3]Uông Huy, “Hoàn cảnh tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề tính hiện đại” (“Dangdai Zhongguo Sixiang Jingkuang uy Xiandaixing Wenti” trong Tianya [Chân trời], số 5, 1997. Muốn đọc bản dịch tiếng Anh, xem Wang Hui, “Contemporary Chinese Thought and the Question of Modernity” trong Social Text, số 55, 1998, trang 9-44.
[4]Nguyên văn “priesthood”: một lớp thầy tu – ND.
[5]Dushu Jing Xuan, vol. i: Gaige: Fansi yu Tuijin, 547 trang.
[6]Dushu Jing Xuan, vol. ii, Chonggou Women de Shijie Tujing, 430 trang.
[7]Bản tiếng Anh “From Miracle to Crash” đăng trên London Review of Books, 16 April 1998.
[8]Dushu Jing Xuan, vol. iv, Yazhou de Bingli, 350 trang.
[9]Wang Hui, “An Asia that isn’t the East”, Le Monde Diplomatique, 27 February 2005.

Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 15.9.2008

Sunday, August 28, 2011

Edward Miller - Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954 (phần cuối)

Vy Huyền, Hoài Phi dịch
Chiến dịch tranh cử thủ tướng của ông Ngô Đình Diệm, 1953-1954

Quyết định rời Hoa Kỳ đến châu Âu tháng 5 năm 1953 của Ngô Đình Diệm là một bước khởi đầu trong ván cờ chính trị mới. Mặc dù cuộc chiến ở Đông Dương vẫn ở thế bế tắc, ông và những đồng minh của ông nhận thấy có sự thay đổi chính trị mà họ hy vọng rằng sẽ có lợi cho ông. Nhờ vị trí thuận lợi của mình ở Sài Gòn, Ngô Đình Nhu nhận thấy rằng những nhà quốc gia không cộng sản đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc lập trong Liên hiệp Pháp của Bảo Ðại. Bốn năm kể từ ngày ký kết Hoà ước Elysée, Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, và với Paris, Quốc gia Việt Nam nhiều nhất là độc lập trên danh nghĩa. Đa số người quốc gia thất vọng với Thủ tướng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Tâm, một người có tiếng là thân Pháp và chuyên quyền. Cuối cùng, những người quốc gia đã nổi giận vì quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu tháng 5 năm 1953, một hành động vi phạm những thoả thuận trước đó với các Quốc gia Liên hiệp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. [1] Khi những bất mãn với Pháp và Bảo Đại tăng cao, anh em họ Ngô ý thức được rằng thời gian đã chín muồi để có thể đưa ra ván cược quyền lực mới.

Khi lập kế hoạch, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều biết rằng phải đi những nước thận trọng. Họ cần phải làm cho Bảo Đại và chiến lược tìm độc lập qua nhượng bộ từng phần của ông ta bị mất uy tín; tuy nhiên, họ cũng phải tránh phê phán trực tiếp cựu hoàng, nếu không, e rằng Bảo Đại khi quá tức giận sẽ từ chối việc ứng cử của Ngô Đình Diệm ngay từ ban đầu. May mắn cho anh em họ, các sự kiện vào mùa hè 1953 đem lại chính những cơ hội mà họ cần. Đầu tháng Bảy, chính phủ Pháp đề nghị một vòng thảo luận mới với các Quốc gia Liên hiệp nhằm “hoàn thiện” nền độc lập của họ trong Liên hiệp Pháp. Nếu như người Pháp đưa ra đề nghị này vào năm 1949 hay 1950, nó có thể được coi là sự công nhận từng bước lập trường của Bảo đại; tuy nhiên, vào thời điểm năm 1953, các đề nghị thương thảo thêm dường như chỉ đổ thêm dầu vào nỗi âu lo của những người quốc gia về ý định chân thành của người Pháp.

Trong hàng loạt những buổi họp với những lãnh đạo phe quốc gia vào tháng Bảy và tháng Tám, Ngô Đình Nhu khéo léo khơi gợi những mối lo âu của họ. Làm việc với Nguyễn Tôn Hoàn của Đại Việt – người, như đã nói ở trên, đã cộng tác với Ngô Đình Diệm một thời gian ngắn trong năm 1947-1948 trước khi Quốc gia Việt Nam thành lập – Ngô Đình Nhu đã úp mở ý tưởng triệu tâp Đại hội Đoàn kết không chính thức tại Sài Gòn vào đầu tháng Chín, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Ý tưởng về Đại hội nhanh chóng được nhiều người quốc gia, trước đây nổi tiếng theo phe Bảo Đại, ủng hộ; ngoài ông Nguyễn Tôn Hoàn của Đại Việt, những người này gồm có lãnh đạo Cao Đài Phạm Công Tắc, tướng Trần Văn Soái của Hoà Hảo, Tướng Lê Văn Viễn của Sài Gòn (Bảy Viễn Bình Xuyên) và một số nhân vật Công giáo quan trọng. Bên cạnh đó, một số nhóm trước đó đã ngừng ủng hộ Bảo Đại và Quốc gia Việt Nam (chẳng hạn Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng thuộc phe quốc gia, và một số tổ chức Phật giáo) cũng đồng ý tham dự Đại hội. Tướng Viễn bằng lòng để sự kiện này tổ chức ở Bình Xuyên, Sài Gòn. [2]

Đại hội Đoàn kết ngày 5, 6 tháng 9, 1953 là một sự kiện hỗn độn. 55 đại biểu có mặt đã tham gia ký xác nhận bản tuyên bố phản đối mạnh mẽ chính sách độc lập từng phần của Bảo Đại. Tuy nhiên, ngay sau khi bản tuyên bố được ký, những người tham dự bắt đầu tranh cãi về những ẩn ý của bản tuyên bố này. Tướng Viễn e ngại rằng Đại hội sẽ vượt khỏi khả năng kiểm soát, nên chỉ sau hai ngày, đã quyết định kết thúc sự kiện này sớm bằng việc đóng hội trường. Phạm Công Tắc của Cao Đài, người trước đó đã phê phán nặng nề Bảo Đại trong những nhận xét công bố trước cuộc họp, giờ đây cùng với những thủ lĩnh của Bình Xuyên và Hoà Hảo gởi điện tín tới cựu hoàng để tái khẳng định sự trung thành của ba nhóm này đối với Quốc gia Việt Nam. Trong khi đó, Ngô Đình Nhu tuyên bố rằng Đại hội đã tạo ra một tổ chức chính trị mới với tên gọi Phong trào Đại đoàn kết và Hoà bình; tuy nhiên, ông cũng thận trọng tránh những lời tuyên bố gay gắt chống Bảo Đại và phủ nhận việc Đại hội đã chọn được lập trường chính trị chính thức. [3]

Về việc xây dựng liên minh, Đại hội Đoàn kết là một thất bại. Tuy nhiên, vì với Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm, sự kiện này chủ yếu chỉ để chiếm lấy quyền hành từ tay Bảo Đại, nên trong trường hợp này, Ðại hội là một thành công rực rỡ. Từ Pháp, Bảo Đại muốn giành lại vị thế chính trị nên đã tuyên bố rằng một “Hội nghị Quốc gia” chính thức sẽ được tổ chức ở Sài Gòn vào tháng Mười năm đó. Những lãnh đạo cấp cao của Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên ngay lập tức đồng ý tham dự, cùng với đại diện của những nhóm quốc gia khác. Tuy nhiên, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông cố ý vắng mặt trong trong buổi họp ngày 12 tháng 10, 1953. Ban đầu, Hội nghị có vẻ nhằm đưa ra phê chuẩn như dự định ủng hộ Bảo Đại và chính sách của ông. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 10, các đại biểu bất ngờ phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham dự vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc “độc lập hoàn toàn”. Dù rằng sau đó các ủng hộ viên trung thành Bảo Đại đạt được một thoả thuận bổ sung vào những tuyên bố chống đối trước đó, rằng một Việt Nam độc lập sẽ không thuộc Liên hiệp “như trong hình thức hiện tại”, nhưng những tổn thất chính trị đã xảy ra. Mục đích của Hội nghị Quốc gia là để chứng tỏ sự ủng hộ của phe quốc gia dành cho Bảo Đại, nhưng thay vào đó, nó lại cho thấy mức độ bất mãn của những người này đối với Bảo Đại và chính sách của ông. [4]

Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu không tham gia Hội nghị tháng Mười, vì hiển nhiên họ sợ rằng việc tham gia của họ sẽ kéo thêm sự ủng hộ cho Bảo Đại. [5] Tuy nhiên, ngay sau đó, họ khám phá rằng, kết quả bất ngờ của hội nghị buộc Bảo Đại phải thân thiện hơn với Ngô Đình Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Đầu tháng 10, trước khi Hội nghị Quốc gia khai mạc, Bảo Đại có một cuộc gặp riêng với Ngô Đình Diệm ở Paris; đó là cuộc gặp mặt trực tiếp đầu tiên của họ trong vòng bốn năm. [6] Sau khi Hội nghị tan rã, cựu hoàng càng trở nên hoà hoãn hơn. Trong cuộc gặp mặt lần thứ hai với Ngô Đình Diệm ở Cannes ngày 26 tháng 10, Bảo Ðại thăm dò khả năng bổ nhiệm Ngô Đình Diệm vào chức thủ tướng với việc thẩm vấn “giả định” về thiện ý phụng sự của Ngô Đình Diệm. [7] Cựu hoàng hoãn lại quyết định về Ngô Đình Diệm vài tháng sau đó; tuy vậy, đến cuối năm 1953, ván cờ của anh em họ Ngô rõ ràng đã giành phần thắng lớn. Uy tín và vị thế của Bảo Đại với toàn dân thấp đến mức kinh khủng. Thái độ chống Pháp kiên quyết của Ngô Đình Diệm, ngược lại, có vẻ rất hợp với phương hướng chung của chính kiến quốc gia ở Sài Gòn, và vì vậy nó dường như bỗng nhiên trở thành điều mà cựu hoàng không thể thiếu được.

Những tháng sau Hội nghị tháng Mười, áp lực với Bảo Đại tiếp tục tăng lên, trong khi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu tiếp tục mở rộng lợi thế của họ. Tháng 12, 1953, Bảo Đại nhượng bộ những than phiền của phe quốc gia và cách chức Thủ tướng chuyên quyền Tâm. Bằng việc thay thế chính phủ của Nguyễn Văn Tâm với nội các lâm thời dưới quyền của Hoàng tử Bảo Lộc, một thành viên của hoàng tộc, Bảo Đại hy vọng kéo dài thời gian để tìm cách giành lại sự ủng hộ của thần dân. Thời cơ giờ đây là vàng bạc, và anh em họ Ngô đã không bỏ lỡ. Vào đầu tháng 3, 1954, sau khi Bảo Đại chấp thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Nhu và những đồng minh của ông xuất bản một bài viết ở Sài Gòn, trong đó, họ tuyên bố chiến thắng và đồng thời thúc ép nhượng bộ thêm. Nước cờ này khơi mào cho sự phân chia giữa phe phái những người quốc gia; trong khi một số thủ lĩnh theo Bảo Đại, một số nhóm trong nội bộ của Cao Đài, Hoà Hảo và Đại Việt lại công khai ủng hộ Ngô Đình Nhu và những đòi hỏi “cách mạng dân tộc chủ nghĩa” của ông. [8]

Khi những đấu đá chính trị ở Sài Gòn tăng cao, tin từ miền Bắc vào giữa tháng Ba cho hay Việt Minh đã vây hãm căn cứ của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tin này, cùng với việc chính phủ Pháp đồng ý đàm phán về vấn đề Đông Dương tại hội nghị các Cường quốc ở Geneva, lập tức biến khả năng người Pháp rút khỏi Việt Nam thành điều sắp xảy ra. Tại Paris, Bảo Đại cảm thấy rằng ông đang hết những lựa chọn. Khi vị thế của người Pháp ở Điện Biên Phủ trở nên bấp bênh, cựu hoàng chuyển lời đến Ngô Đình Diệm qua người em út của ông là Ngô Đình Luyện. Điện Biên Phủ rơi vào tay Việt Minh ngày 7 tháng 5, 1954; vài ngày sau đó, Ngô Đình Diệm đến Paris để gặp Bảo Đại lần nữa. Theo những gì được biết sau này, Ngô Đình Diệm rất e dè; ban đầu, ông làm như không hề quan tâm đến chức vụ thủ tướng. Bảo Đại buộc phải để nghị Ngô Đình Diệm đến lần thứ hai, khẩn nài Diệm rằng “sự bảo vệ cơ đồ Việt Nam tuỳ thuộc vào việc này”. [9]

Những sự kiện xảy ra ở Sài Gòn và Pháp trong suốt thời gian 1953-1954, và vai trò liên quan của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu là những mấu xích quan trọng giúp chúng ta hiểu con đường đến quyền lực của Ngô Đình Diệm và việc người Mỹ được cho là đã tham gia vào việc đảm bảo cho Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Từ lâu nay, mọi người quả quyết rằng những quan chức Hoa Kỳ đã bí mật áp lực Bảo Đại chọn Ngô Đình Diệm. [10] Tuy nhiên, sử gia David L. Anderson chỉ ra rằng, vào đầu năm 1954, những quan chức cấp cao của chính quyền Eisenhower chỉ “biết mơ hồ” về Ngô Đình Diệm, và những tài liệu chính thức của Hoa Kỳ không cung cấp bằng chứng những cáo buộc rằng Hoa Kỳ tổ chức chiến dịch ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, Anderson lập luận rằng quyết định của Bảo Đại được hình thành chủ yếu bởi niềm tin của ông rằng Quốc gia Việt Nam cần có sự ủng hộ của Hoa Kỳ để tiếp tục tồn tại, và Bảo Ðại cho rằng Ngô Đình Diệm là một lãnh đạo có khả năng nhất để bảo đảm được sự ủng hộ này. [11] Những khẳng định của Anderson ban đầu có vẻ chỉ có tầm quan trọng tương đối nhỏ, nhưng nó trở nên lớn dần trong những tranh luận sau đó về nguồn gốc và tiến triển của việc can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong thập niên 1950.

Những bằng chứng ở đây cho thấy rằng giải thích của Anderson là đúng nhưng không trọn vẹn. Ngoài những lý do của tình hình thế giới, quyết định của Bảo Đại chủ yếu được hình thành bởi những tiến triển chính trị tại Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1954, những sự kiện xảy ra đã hợp thức hoá quyết định của Ngô Đình Diệm trong việc giành quyền độc lập “đúng nghĩa” từ người Pháp. Ngay cả trước khi người Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, lập trường của Ngô Đình Diệm về vấn đề độc lập hiển nhiên được ưa chuộng hơn khi so sánh với Bảo Đại. Hơn nữa, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông cho thấy một cách thuyết phục rằng Ngô Đình Diệm nắm giữ một tâm điểm chính trị tại Việt Nam. Như Bảo Đại sau này viết trong hồi ký của mình, sự kính mến của những người quốc gia dành cho anh em họ là phần quan trọng trong bàn tính chính trị của ông:

“Từ những gì tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi vì quá khứ [của ông Diệm] và bởi vì sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người quốc gia thế lực nhất, những người đã hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng, cũng vì tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông là người ta có thể trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.” [12]

Đến giờ này, các sử gia vẫn chưa tìm ra được một tài liệu bằng chứng nào cho việc Hoa Kỳ đã bí mật đưa Ngô Đình Diệm vào chức vụ thủ tướng vào mùa xuân 1954, nhưng cho dù có một âm mưu như vậy đã được ấp ủ và thi hành, nó cũng không ảnh hưởng nhiều đến quyết định của Bảo Đại. Vào tháng 5, 1954, Bảo Đại đã bị các sự kiện áp đảo và bị Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vượt mặt về chiến thuật. Ông hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc giao cho Ngô Đình Diệm chức thủ tướng với những điều kiện mà Ngô Đình Diệm đã đòi hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có “toàn quyền” trong mọi khía cạnh của chính phủ, quân sự và kinh tế.

Ngày 16 tháng 6, 1954 – đúng năm năm kể từ ngày công bố bản tuyên ngôn cho một hướng đi khác đến “cách mạng xã hội” – Ngô Đình Diệm chính thức đồng ý thành lập nội các, và vì vậy trở lại với chính trường lần đầu tiên kể từ năm 1933. Với Ngô Đình Diệm, người đã cam chịu nhiều thất vọng chính trị qua gần một thập kỷ, đây là thời điểm hoàn toàn chính đáng cho sự trở lại. Chắc chắn rằng, Ngô Đình Diệm quá kinh nghiệm với những thăng trầm của nền chính trị Đông Dương để có thể tin rằng chiến thắng của ông là trọn vẹn, hay được bảo đảm thành công về mặt lâu dài. Ngược lại, ông biết rằng việc ông được bổ nhiệm không đem lại cho ông gì hơn một cơ hội để nắm lấy những nhiệm vụ to lớn và đầy đe doạ mà chính phủ Quốc gia Việt Nam đang đối mặt. Dù sao, Ngô Đình Diệm giờ đây đã có những mở đầu chính trị mà ông quyết tìm kiếm từ lâu, và ông phấn khích với những gì đạt được. “Thật thế, giờ phút này là giờ phút quyết định”, ông đã tuyên bố như vậy ngay sau khi quyết định bổ nhiệm được thông báo. [13] Như những sự kiện cho thấy, những quyết định trong hai năm 1954-1955 quả thật đã có những hệ quả sâu sắc cho Việt Nam và cho tất cả những cường quốc muốn gây ảnh hưởng ở đất nước này. Do bởi tính kiên trì, nhẫn nại, lập kế hoạch, tranh thủ cơ hội và dự phần không nhỏ của may mắn, cuối cùng Diệm giành được cơ hội để định hướng cho đa số những quyết định đó. Đó là vai trò của cả một cuộc đời, và ông đã đặt cược đến cùng.

Kết luận

Khi Ngô Đình Diệm về Sài Gòn vào ngày 25 tháng 6, 1954 với cương vị Thủ tướng [được chỉ định] của Quốc gia Việt Nam, nhiều người ở Việt Nam và khắp nơi nghĩ rằng nhiệm kỳ của ông sẽ sớm kết thúc. Quốc gia mà ông đang nắm quyền vẫn còn hoạt động chủ yếu theo mệnh lệnh của những quan chức thuộc địa Pháp, những người có thái độ từ cam chịu chấp nhận đến thù địch trước việc ông Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm. Trong khi đó, những quan chức Hoa Kỳ lại phân chia rõ rệt trong việc nên hay không nên ủng hộ ông. Nếu Ngô Đình Diệm không thể dựa vào ủng hộ của bên ngoài để giữ vững chức vụ, ông cũng không thể trông mong gìn giữ vai trò lãnh đạo đơn giản bằng việc lôi kéo các lực bẩy của quyền lực quốc gia. Quân đội Quốc gia Việt Nam được chỉ huy bởi những tướng lãnh thân Pháp, là những người rất nghi ngờ Ngô Đình Diệm. Uy quyền của Quốc gia Việt Nam đa số chỉ giới hạn ở những thành thị lớn của Việt Nam, và vùng nông thôn là những mảng độc lập không chính thức của các thủ lĩnh. Ngay cả ở Sài Gòn, quyền lực của Ngô Đình Diệm cũng bị hạn chế vì lực lượng cảnh sát địa phương đều thuộc quyền kiểm soát của Bình Xuyên. Chỉ vài tuần sau khi nhận chức, phạm vi quyền lực của ông lại bị thu hẹp bởi tuyên bố rằng người Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được thoả thuận ở Geneva, chia đôi Việt Nam thành hai miền nam bắc trước cuộc tổng tuyển cử năm 1956 – một cuộc tuyển cử được nhiều người dự đoán là phe cộng sản sẽ giành phần thắng.

Bất chấp những việc xảy ra, vị thế của Ngô Đình Diệm không vô vọng như mọi người thấy. 18 tháng tiếp theo đó, ông tập hợp lại quân đội, dẹp tan những bè phái kình địch, trục xuất Bảo Đại và tuyên bố sự thành lập một quốc gia miền Nam Việt Nam mới mà ông giữ chức Tổng thống. Một thảo luận đầy đủ về việc Ngô Đình Diệm đã làm thế nào để có thể bất chấp những dự tính (của các phe phái khác) và củng cố uy quyền của ông trong thời gian 1954-1955 nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này; dù vậy, những lập luận được đưa ra ở đây cho thấy những gì mọi người biết về ông và những cách để ông giữ vững được quyền lực của mình sau năm 1954 cần phải được xem xét lại. Có ba điểm đặc biệt rõ ràng.

Đầu tiên, vào thời điểm tiến đến chức vụ thủ tướng, Ngô Đình Diệm không hề thiếu những đồng minh tại Việt Nam như mọi người lầm tưởng. Ngoài những người Công giáo ủng hộ ông, ông còn có những ủng hộ từ những nhóm và những lãnh đạo không Công giáo quan trọng khác, phần lớn nhờ vào những cố gắng của các anh em của ông trong giai đoạn ông sống lưu vong. Những hoạt động của Ngô Đình Nhu trong suốt thời gian đầu những năm 1950 (như việc thành lập đảng Cần Lao và việc thu nhận những công đoàn lao động của Trần Quốc Bửu) đặc biệt quan trọng, bởi vì chúng đem đến những phương tiện để Ngô Đình Diệm có thể vận động sự ủng hộ trong suốt những tháng đầu tiên đầy xáo trộn sau khi ông lên nắm quyền.

Thứ hai, trong năm 1954, Ngô Đình Diệm không hề chú ý đến Hoa Kỳ hay có khuynh hướng đi theo những lời khuyên của người Mỹ. Không có bằng cớ nào chứng tỏ rằng Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm nhờ một chiến dịch gây áp lực (với Bảo Ðại) do những quan chức Hoa Kỳ khởi xướng. Thay vào đó, ông nắm được chức thủ tướng là nhờ vào chuỗi tập hợp những vận may và việc ông cẩn trọng kết hợp tất cả những hoạt động của ông với hoạt động của những người ủng hộ ông ở Đông Dương. Vì Ngô Đình Diệm không lệ thuộc vào sự ủng hộ của người Mỹ hay theo những chỉ định của người Mỹ trước tháng 6, 1954, không có lý do gì để cho rằng ông lập tức dựa vào các quan chức Hoa Kỳ sau ngày đó. Lên nắm quyền nhờ vào những cố gắng cá nhân của ông và của các anh em ông, ông Ngô Đình Diệm không có khuynh hướng theo Hoa Kỳ về chính sách và chiến lược chính trị. Ngược lại, trở lại Sài Gòn với quyết tâm hơn bao giờ để đi theo quyết định của mình và để tiến hành những dự định nhằm củng cố và mở rộng quyền lực, chúng ta cần lưu ý đến xu hướng chỉ dùng những quyết định của riêng mình của Ngô Đình Diệm khi phân tích những sự kiện xảy ra sau năm 1954, và đặc biệt khi đánh giá quan hệ của ông với các quan chức Hoa Kỳ.

Cuối cùng, những lời nói và việc làm của Ngô Đình Diệm trong suốt giai đoạn 1945-1954 cho thấy sự bất hợp lý khi cho rằng ông là nhân vật “truyền thống”, người không muốn hiện đại hoá và phát triển. Mặc dù ông có thiên hướng vận động ngầm, Ngô Đình Diệm nhận biết rằng thành công hay thất bại cuối cùng của thể chế mới của ông cần xoay quanh nhiều việc khác hơn là chỉ đặt những kế hoạch và phi vụ bí mật. Trong bài diễn văn đầu tiên của mình sau khi trở về Sài Gòn, Ngô Đình Diệm tái khẳng định rằng mục tiêu của ông là đề xướng thay đổi cách mạng ở Việt Nam.

“Trước một thời cơ khẩn cấp, tôi sẽ hành động quyết-liệt. Tôi sẽ cương-quyết vạch ra một đường lối cứu-quốc. Một cuộc cách-mệnh toàn diện sẽ được thực hiện trong hết mọi ngành tổ-chức và sinh-hoạt quốc-gia.” [14]

Trong những tuyên bố trước đó về những điều này, viễn kiến về cuộc cách mạng mà Ngô Đình Diệm đưa ra vào tháng 6 năm 1954 vẫn còn đang ở mức ban đầu và mơ hồ. Nhưng dù sao, nó vẫn là một viễn kiến, và ông đã đặt cược thành công của chính thể mới vào khả năng thi hành viễn kiến này của mình. Với sự giúp đỡ của Ngô Đình Nhu, hướng đi của Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên chi tiết và tỉ mỉ hơn vào thời gian sau đó. Đến năm 1957, chính thể đã công khai lấy chủ nghĩa Nhân vị làm tư tưởng chính thức và tuyên bố cuộc “Cách mạng Nhân vị” là mục tiêu tối thượng của chính sách quốc gia. Như cách chọn sử dụng những từ ngữ này cho thấy, quan điểm của Ngô Đình Nhu về nhân vị là nhận thức cơ bản cho tư tưởng mới này. Trong suốt thời gian đó cho đến năm 1963, anh em họ Ngô tiếp tục hoàn thiện tư tưởng mới này, và chúng có mặt cả trong những chính sách cột trụ của việc xây dựng quốc gia ở những lãnh vực như phát triển kinh tế, cải cách điền địa và an ninh quốc gia.

Kết cuộc thì cuộc Cách mạng Nhân vị đã không được thực hiện. Như những người chống Ngô Đình Diệm (và thậm chí cả nhiều người ngưỡng mộ ông) cho biết, hệ tư tưởng của Ngô Đình Diệm về chủ nghĩa Nhân vị không chỉ phức tạp mà còn hết sức trừu tượng và thường quá dày đặc để có thể lĩnh hội được. Mặc dù nó cung cấp tài liệu và hình thành chính sách của chính thể, nó mang quá ít ích lợi khi dùng làm phương tiện để tạo ra sự ủng hộ cho những chính sách này. Tuy nhiên, khi nói rằng hướng đi của Ngô Đình Diệm không thực hiện được, không có nghĩa nó không quan trọng, hay cần gạt bỏ nó như đơn thuần chỉ là ảo tưởng vô vọng của một bạo chúa lạc hậu. Theo nhiều người Việt Nam và khá nhiều những người Mỹ phát hiện thấy, Ngô Đình Diệm có tài ghê gớm trong việc truyền cảm hứng cho những người gặp gỡ và lắng nghe ông; việc ông cũng có khi tẻ nhạt, độc đoán và thậm chí tàn bạo cũng không làm lu mờ đi khả năng này. Như nhiều nhà lãnh đạo khác, Ngô Đình Diệm kết hợp những tham vọng quyền lực và viễn kiến của mình bằng nhiều cách phức tạp và đôi khi mâu thuẫn nhau. Tháo gỡ những phức tạp về chính trị và tư tưởng của ông, vì vậy, là một bước quan trọng để đi đến việc xem xét lại và hiểu rõ hơn vai trò của ông trong cuộc đấu tranh lâu dài và rối rắm, để hình thành nên số phận Việt Nam hiện đại.

Bản tiếng Việt: © 2007 talawas


[1]Xem Hammer, Struggle for Indochina, pp. 281–6, 300–1.
[2]Về những chuẩn bị cho Đại hội tháng 9, xem Guillernot, “Revolution nationale”, 628-32.
[3]Những tài liệu chi tiết về Đại hội Đoàn kết được nói đến trong Telegram, Kidder gởi Bộ ngoại giao, 22 tháng 9, 1953, USNA 2, 751G.00/9-2253. Về những tài liệu được xuất bản, xem Tiếng Dội, 8 tháng 9, 1953; Le Monde, 8 tháng 9, 1953; và Donald Lancaster, The emancipation of French Indochina (Oxford: Oxford University Press, 1961), 275-7. Bảo Đại không hề nói đến Hội nghị tháng 9 trong hồi ký của ông, nhưng ông thừa nhận khước từ lời đề nghị tổ chức Đại hội của Ngô Đình Nhu và một số người khác vào mùa hè năm 1953; Bảo Đại, Dragon d’Annam, 312-13. Về những thông báo của việc thành lập Phong trào Công đoàn và Hoà Bình Quốc gia, xem Phong Thuỷ, “Ý nghĩa và giá trị cuộc Đại hội Đoàn kết ngày 6-9-53”, XH, 15 tháng 9, 1953, trang 2.
[4]Chi tiết về những diễn tiến của Đại hội Tháng 10, xem Vietnam Presse, 31-36 (12-17 tháng 10, 1953) và Le Monde, 17-20 tháng 10, 1953.
[5]Xem thư của Ngô Đình Diệm trên tờ Le Monde, 25-6 tháng 10, 1953. Những cố gắng của Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông để tạo một vị thế chính trị khác biệt trước Hội nghị tháng 10 được nói chi tiết trong “Press conference held by protagonist of ‘National Congress’ of early Semtempter 1953” của Sturm gởi Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, 16 tháng 10, 1953, USNA 2, 751G.00/10-1653
[6]Xem Telegram, Dillion gởi Dulles, 14 tháng 10, 1953, USNA2, 751G.00/10-1453; cuộc gặp diễn ra ngày 12 tháng 10. Đầu tháng 9, một nguồn tin của Hoa Kỳ mô tả rằng Diệm tự tin rằng ông và Bảo Đại đang sắp hoà giải. (Smith to Saigon and Paris, 14 tháng 9, 1953, USNA2, 751G.00/9-1453).
[7]Hoàn cảnh của cuộc gặp lần thứ hai được tường thuật lại trong Vietnam Presse, 45 (27 tháng 10, 1953); xem thêm Le Monde, 28 tháng 10, 1953. Việc Bảo Đại chất vấn Diệm về tính sẵn sàng phục vụ được một tuỳ tùng của cựu hoàng tường thuật lại cho các quan chức Hoa Kỳ. (Telegram, Dillion to Dulles, 28 tháng 10, 1953, USNA2, 751G.00/10-2853)
[8]Xem Guillernot, “Revolution nationale”, 627-34.
[9]Xem Bảo Đại, Dragon d’Annam, trang 328. Bảo Đại hàm ý rằng những trao đổi với Ngô Đình Diệm xảy ra vào tháng 6, 1954; tuy nhiên, những nguồn tin đương thời cho thấy rằng Ngô Đình Diệm đã chấp thuận đề nghị của Bảo Đại trong cuộc họp trước đó vào giữa tháng 5 (Telegram, Dillion gời đến Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, 24 tháng 5, 1954, FRUS 1952-1954, vol. 13, trang 1608).
[10]Những trình bày của thuyết này được tìm thấy trong Chaffard, Indochine, 19-20, 26-9 và Robert Scheer và Warren Hinkle, “The VietNam Lobby”, Ramparts, tháng 7, 1965, 16-24. Trong hồi ký của mình về Việt Nam, quan chức Hoa Kỳ Chester Cooper viết rằng một số người Mỹ kết luận rằng CIA đã ủng hộ ông Diệm từ mùa xuân 1953; Chester Cooper, The lost crusade: America in Vietnam (New York: Dodd, Mead, 1970), trang 120. Những cáo buộc về ảnh hưởng Hoa Kỳ cũng xuất hiện trong Townsend Hoopes, The devil and John FosterDulles (Boston: Little, Brown, 1973), trang 251; Marilyn Young, The Vietnam wars, 1945–1990 (New York: HarperCollins, 1991), trang 44; Kahin, Intervention, trang 78; và Jacobs, ‘“Sink or swim”’, pp. 100–16.
[11]Xem David Anderson, Trapped by success: The Eisenhower administration and Vietnam, 1953–1961 (New York: Columbia University Press, 1991), 41–64, và đặc biệt là 52–5.
[12]Xem Bảo Đại, Dragon d’Annam, trang 329. [Nguyên bản bằng tiếng Pháp; người dịch dựa trên bản tiếng Anh – ND].
[13]Xem Ngô Đình Diệm, “Tuyên bố khi nhận lập Chánh phủ (Ba-Lê, 16-6-1954)”, trong Con đường chính nghĩa, tập 1. trang 13.
[14]Xem Ngô Đình Diệm, “Hiệu triệu quốc dân khi về tới Saigon, ngày 25-6-1954”, như trên, trang 16. 
Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004. Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 11.8.2007.

Edward Miller - Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954 (phần 2)

Vy Huyền, Hoài Phi dịch 

Bước lưu vong của Ngô Đình Diệm ở Mỹ, 1950-1953

Vào đầu năm 1950, không gian cho cuộc vận động chính trị của Ngô Đình Diệm giảm xuống trầm trọng do sự phát triển của tình hình ở cả Ðông Dương và nước ngoài. Vào tháng 2 năm đó, Việt Minh đã đạt được một đột phá về ngoại giao khi cả Trung Quốc và Liên Xô đều chính thức thừa nhận và ủng hộ Hồ Chí Minh và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong khi đó, việc phê chuẩn Hiệp ước Elysée sau một thời gian trì hoãn dài dẫn đến việc Mỹ và Anh chính thức hậu thuẫn cho Quốc gia Việt Nam và Bảo Ðại. Những thay đổi trên trường quốc tế này báo trước các lập trường chính trị ở Ðông Dương trở nên cứng rắn hơn. Với việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giờ đây nghiêng về khối cộng sản, Hồ Chí Minh và các đồng sự không còn muốn nhượng bộ để đạt được sự hợp tác với các phe nhóm quốc gia không cộng sản như trước nữa. Cùng lúc đó, Bảo Ðại và người Pháp cũng chuyển hướng sự chú ý sang Washington và những hứa hẹn viện trợ quân sự, với hy vọng sẽ giành được thế trên trong trận chiến. Kết quả của những phát triển mới này là giảm thiểu lực đòn bẩy mà Ngô Đình Diệm đã từng có trước đây với vai trò trung lập về danh nghĩa trong cuộc xung đột. Sự giảm thiểu lực đòn bẩy này trở nên rõ rệt khủng khiếp vào đầu năm 1950 khi Ngô Đình Diệm được tin là Việt Minh đã ra lệnh ám sát ông. [1] Với Ngô Đình Diệm, đã đến lúc phải cân nhắc những chiến lược khác và tìm kiếm sự ủng hộ của những nơi khác. Tháng 8 năm 1950, Ngô Đình Diệm rời Ðông Dương trong một chuyến đi dự định chỉ một vài tháng; nhưng ông đã ở nước ngoài tới gần bốn năm.

Hẳn Ngô Đình Diệm rời Việt Nam mà không hề có một kế hoạch lớn hay chiến lược nào; dường như ông đang dò tìm một số cách khác nhau nhằm thu được sự hỗ trợ của nhiều phe nhóm và chính phủ nước ngoài. Ði cùng Giám mục Ngô Ðình Thục, người luôn nhiệt tình ủng hộ các mục tiêu chính trị của em trai mình, Ngô Đình Diệm sang Nhật trước tiên. Với sự giúp đỡ của một trong những ủng hộ viên “lý tưởng hoá” của ông thời Nhật chiếm đóng, lần đầu tiên ông đã gặp trực tiếp đồng minh trước đây của mình là hoàng tử Cường Ðể, khi đó sống ở Tokyo. Sau này Ngô Đình Diệm nhớ lại đó là một cuộc gặp gỡ dễ chịu, và có lẽ họ đã hồi tưởng khá nhiều về các sự kiện năm 1945, nhưng họ cũng bàn đến một sự hợp tác mới. [2] Trước khi rời Việt Nam, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục tỏ ra quan tâm đến một âm mưu trong đó Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Ðại sẽ được thay thế bằng con trai ông là Bảo Long, đang ở độ thiếu niên, và bằng cách đó mở đường cho Cường Ðể trở về Ðông Dương làm nhiếp chính cho vị thái tử trẻ. [3] Cường Ðể có thể đã quan tâm đến kế hoạch đó. Thực vậy, một vài tuần lễ trước khi gặp Ngô Đình Diệm, vị hoàng tử này đã thử đáp tàu thuỷ sang Ðông Dương, nhưng bị nhà cầm quyền Pháp từ chối không cho vào. Ðó cũng là cố gắng hồi hương cuối cùng của Cường Ðể; ông mất tại Tokyo vào ngày 6 tháng 4 năm 1951, sau 36 năm sống lưu vong. Nhiều năm sau, khi Ngô Đình Diệm đã trở thành lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, ông sắp xếp đưa di hài của vị hoàng tử này về chôn tại quê ở Huế. [4]

Bây giờ xem xét lại, sự kiện quan trọng nhất trong thời gian Ngô Đình Diệm ở Nhật không phải là cuộc gặp gỡ với Cường Ðể, mà là việc quen được một nhà khoa học chính trị người Mỹ là Wesley Fishel. Tuy mới chỉ 31 tuổi, Fishel đã có tiếng là một chuyên gia về chính trị Ðông Á. Giống như nhiều nhà khoa học chính trị thế hệ ông, Fishel tiếp cận ngành mình bằng quan điểm nhìn từ trên xuống (top-down); cách tiếp cận này được thể hiện qua việc ông quan tâm đến giới tinh hoa chính trị Châu Á, đối tượng của phần lớn các nghiên cứu của ông. Fishel muốn nghiên cứu giới tinh hoa, nhưng ông ta cũng muốn làm cố vấn và gây ảnh hưởng tới họ. Như một đồng nghiệp của ông hồi tưởng lại, ngay từ khi mới bước vào nghề này, Fishel đã có thói quen gây dựng quan hệ cá nhân với các lãnh đạo Châu Á, những người, theo Fishel, có nhiều khả năng nắm quyền trong tương lai. [5] Fishel thấy Ngô Đình Diệm là một “nhân vật hết sức sắc sảo; Rõ ràng học giả người Mỹ này cũng gây ấn tượng nơi Ngô Đình Diệm, và cả hai đồng ý trao đổi thư tín. [6] Sau này, Fishel trở thành một trong những ủng hộ viên Mỹ nhiệt tình nhất của Ngô Đình Diệm, và Ngô Đình Diệm đã tận dụng tốt những quan hệ của Fishel trong giới học thuật và với chính phủ Mỹ trong và sau thời gian sống lưu vong.

Ngay cả trước khi gặp Fishel, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục đã quyết định rằng điểm dừng kế tiếp trong chuyến đi của họ sẽ là Hoa Kỳ. Cũng như Ngô Đình Diệm cố gắng khai thác cảm tình của những người Nhật “lý tưởng hoá” để giành sự ủng hộ của Tokyo vào đầu thập niên 1940, giờ đây ông hy vọng chuyển những tình cảm chống thực dân của người Mỹ sang thế có lợi cho ông. Vào đầu tháng 9 năm 1950, hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục vượt Thái Bình Dương sang Mỹ và đến Washington, nơi họ được tiếp đón ở Bộ Ngoại giao. Những quan chức gặp Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục quan tâm đến đề nghị sử dụng các chiến binh Công giáo làm nòng cốt cho một Quân đội Quốc gia Việt Nam mới. Nhưng Ngô Đình Diệm và khả năng ông trở thành một lãnh đạo không gây được mấy ấn tượng với người Mỹ; một quan chức tuyên bố sau cuộc gặp là Ngô Đình Diệm “quan tâm ngang bằng nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay vì giải quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay.” [7]

Thất bại trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục tiếp tục sang Châu Âu vào tháng 10 năm 1950. Sau này Ngô Đình Diệm kể lại là ông đã gặp Giáo hoàng ở Vatican; ông cũng sang Paris một thời gian ngắn, gặp gỡ các quan chức Việt và Pháp ở đó và gửi một thông điệp tới Bảo Ðại. Thông điệp này mang lời đề nghị làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Ngô Đình Diệm, với điều kiện là ông có đủ thẩm quyền để cai trị các cơ quan hành chính vùng miền trong Việt Nam. Ðề nghị này có vẻ là bước lui của Ngô Đình Diệm, vì trong đó không ghi yêu cầu trước đây của ông đòi quyền tự trị lãnh thổ thì ông mới đồng ý phục vụ trong chính phủ của Quốc gia Việt Nam. Nhưng Bảo Ðại không ấn tượng với khả năng mềm dẻo mới có này của Ngô Đình Diệm, và chỉ trả lời chung chung. [8]

Vào tháng 12 năm 1950, các cơ may của Ngô Đình Diệm xuống tới mức thấp nhất. Việc sang Nhật, Mỹ và châu Âu đều không mang lại cú tăng lực chính trị tức thì mà ông cần để hô hào ủng hộ cho một “Lực lượng thứ Ba”; nhưng nếu trở về Việt Nam, ông phải đối mặt với thế bị cô lập về chính trị và có thể bị ám sát. Vì vậy ông quyết định đổi hướng, cả về chiến lược và địa lý. Sau khi chia tay với Ngô Đình Thục vì đã đến lúc ông này phải quay lại Việt Nam, Ngô Đình Diệm lại vượt Ðại Tây Dương sang Mỹ; trong hai năm rưỡi sau đó, ông lặng lẽ tìm kiếm sự ủng hộ trong những cảm tình viên người Mỹ và đợi ngọn gió chính trị Ðông Dương đổi sang chiều có lợi cho ông. [9] Cũng như chuyến thăm lần đầu, không phải tất cả những người Mỹ gặp Ngô Đình Diệm trong thời gian ông sống lưu vong này đều có ấn tượng về ông. Các quan chức trong chính quyền Truman nói chung là thờ ơ, một phần vì họ có xu hướng tin rằng “giải pháp Bảo Ðại” là khả năng tốt nhất trong hoàn cảnh hiện tại; theo quan điểm của họ, thái độ chống Pháp của Ngô Đình Diệm thật ngây thơ và thậm chí còn nguy hiểm. Mặc dù Ngô Đình Diệm có một số cuộc gặp gỡ với Bộ Ngoại giao Mỹ trong năm 1950 và 1951, các quan chức trong bộ hầu như không để ý gì đến các đề nghị của ông. Họ quan tâm nhiều hơn đến việc thuyết phục ông giảm bớt quan điểm phê phán với các chính sách của Pháp. [10]

May mắn cho Ngô Đình Diệm là có một số người Mỹ khác có thiện cảm hơn với thái độ chống Pháp và niềm tin vào Lực lượng thứ Ba của ông, và Ngô Đình Diệm đặc biệt thành công trong việc tìm ra những người này. Danh sách những người Mỹ nổi tiếng đã gặp và thừa nhận sự ngưỡng mộ họ dành cho Ngô Đình Diệm vào đầu thập niên 1950 gồm có một Hồng y Công giáo La Mã, một Thẩm phán trong Toà án Tối cao Mỹ, và ít nhất là 6, 7 thành viên của Quốc hội, vô số các nhà báo, một số học giả quan trọng, và thậm chí cả William J. Donovan, người sáng lập đồng thời là tiền giám đốc Cơ quan Tình báo Chiến lược OSS. [11] Rất khó để phân loại nhóm người Mỹ hâm mộ Ngô Đình Diệm này. Mặc dù nhiều người trong số họ theo Công giáo, một số lớn khác lại không phải; Chẳng hạn, Wesley Fishel là người Do Thái. Tương tự, sức thu hút của Ngô Đình Diệm không chỉ giới hạn trong giới bảo thủ hay cấp tiến. Ngoài việc lôi cuốn được sự chú ý của những nhân vật bảo thủ nổi tiếng như Donovan, Ngô Đình Diệm cũng gây ấn tượng được với giới cấp tiến chẳng hạn như Nghị sĩ Mike Mansfield và nhà báo Gouverneur Paulding. Thực vậy, bảng danh sách của những ủng hộ viên người Mỹ mà Ngô Đình Diệm tập hợp trong những năm đầu thập niên 1950 thật đáng kể vì nó bao gồm cả phe cấp tiến lẫn phe bảo thủ, cũng như những phẩm chất phổ quát và không phân biệt đảng phái của nó.

Ðiều gì giải thích cho khả năng thu hút sự ủng hộ từ một nhóm người Mỹ danh tiếng khác nhau như vậy của Ngô Đình Diệm? Theo hầu hết tất cả những bài viết về Ngô Đình Diệm, một phần sức hút của ông với người Mỹ là chủ nghĩa chống cộng kiên định. Thời gian ngắn ông ở Mỹ trùng hợp với cao điểm của chủ nghĩa McCarthy, một giai đoạn mà uỷ nhiệm thư chống cộng là bắt buộc với bất kỳ nhà lãnh đạo nước ngoài nào muốn giành được sự ủng hộ của Mỹ cho sự nghiệp của mình. Nhưng nếu việc chống cộng cần thiết để cuộc vận động của Ngô Đình Diệm thu hút được sự ủng hộ của Mỹ vào đầu thập niên 1950, nó không đủ để bảo đảm cho cuộc vận động ấy thành công. Nếu chỉ chống cộng thôi thì Ngô Đình Diệm gần như không khác gì người Pháp và Bảo Ðại, những đồng minh chính thức của Mỹ.

Thay vì chống cộng, một số tác giả đã chỉ ra rằng căn cước Công giáo của Ngô Đình Diệm là nhân tố quyết định giúp ông thu hút những ủng hộ viên người Mỹ. Ðương nhiên là Ngô Đình Diệm dựa khá nhiều vào các mối quan hệ với Vatican của Ngô Đình Thục và các giám mục người Việt khác trong thời gian sống lưu vong; ông đã sử dụng những mối quan hệ này để giới thiệu ông với các nhân vật Mỹ nổi tiếng, và để ông trú ngụ tại các trường dòng Công giáo. Hơn nữa, ông không chống lại việc sử dụng danh tiếng lãnh đạo giới Công giáo người Việt của mình để giành sự ủng hộ của các đồng đạo người Mỹ. [12] Nhưng quan niệm cho rằng Công giáo là yếu tố chủ chốt giải thích cho khả năng giành được sự ủng hộ từ người Mỹ của Ngô Đình Diệm giỏi lắm cũng chỉ là phóng đại. [13] Mặc dù Ngô Đình Diệm bàn về các vấn đề tôn giáo trong thư tín và các cuộc trao đổi riêng tư, dường như ông không định thiết lập một quan hệ hợp tác Mỹ-Việt với tư cách một liên minh Cơ Ðốc giáo trong tương lai. Ngược lại, trong các cuộc trao đổi giữa ông và những người Mỹ không theo Công giáo, và đặc biệt trong những lời ông nhận xét trước công chúng trong thời gian lưu vong, Ngô Đình Diệm luôn tránh những tuyên bố và ngôn ngữ tôn giáo và ưu tiên những lý luận thế tục về một cam kết với hai mục tiêu chống cộng và chống thực dân. [14]

Thay vì nhấn mạnh vào tôn giáo, Ngô Đình Diệm quan tâm nhiều hơn đến việc thu hút những người Mỹ tin vào phát triển, hiện đại hoá và khả năng biến đổi (một xã hội) của nền công nghệ Mỹ. Ðặc biệt, ông tìm cách khai thác những quan tâm chính thức mới (của Mỹ) trong việc “hỗ trợ kỹ thuật” cho nước ngoài. Vào năm 1949, Tổng thống Harry Truman tuyên bố chương trình “Point Four” (Ðiểm Bốn), tăng cường đáng kể mức độ hỗ trợ phi quân sự mà Mỹ dành cho nước ngoài. Mặc dù Point Four là kế tục trực tiếp của Kế hoạch Marshal 1947 nhằm giúp tái thiết Tây Âu, nó có quy mô toàn cầu và bao gồm nhiều loại viện trợ rộng lớn hơn. Ngoài các chương trình tài trợ và trợ cấp ra, “hỗ trợ kỹ thuật” còn bao gồm cả việc cung cấp thiết bị, đào tạo và kiến thức chuyên môn. Như nhiều học giả đã chỉ ra, chương trình Point Four báo hiệu lòng tự tin mới của nước Mỹ về khả năng viện trợ và chuyên môn của Mỹ để định hướng cho những thay đổi kinh tế, chính trị và xã hội khắp thế giới. Là một chiến trường then chốt của Chiến tranh Lạnh, đối với nhiều quan chức Mỹ, Việt Nam rất cần sự giúp đỡ mà chương trình Point Four được thiết kế để cung cấp. Vào thời điểm Ngô Đình Diệm đến Mỹ vào năm 1950, một chương trình trợ giúp kỹ thuật nhỏ của Mỹ đã được thực hiện ở Ðông Dương, và sự trợ giúp kỹ thuật của Mỹ dành cho các Quốc gia Liên hiệp (Ðông Dương) đều đặn tăng lên. [15]

Trong khi nỗ lực định hướng hình thức và nội dung sự hỗ trợ kỹ thuật của Mỹ cho Việt Nam, Ngô Đình Diệm nhận được sự giúp đỡ quý giá từ người bạn của mình là Wesley Fishel. Fishel ở một cương vị rất thích hợp để giúp đỡ Ngô Đình Diệm trong vấn đề này, vì vào năm 1951, ông ta vào giảng dạy tại Michigan State College (không bao lâu sau đó, trường này đổi tên thành Michigan State University). Trong những năm 1950, dưới sự lãnh đạo đầy nhiệt tâm của Chủ tịch John Hannah, trường Michigan State quản lý những dự án giúp đỡ kỹ thuật do chính phủ tài trợ ở những nước như Brazil, Columbia và Nhật. [16] Không bao lâu sau khi vào trường, Fishel sắp xếp cho Ngô Đình Diệm làm việc ở đó như một cố vấn; việc này giúp Ngô Đình Diệm và Fishel có dịp hợp tác soạn thảo một dự án trợ giúp kỹ thuật cho Việt Nam. Lá thư năm 1952 mà Fishel đề đạt dự kiến lên trước US Mutual Security Agency (Cơ quan An ninh Hỗ tương Hoa Kỳ) mang ảnh hưởng của Fishel rất rõ, vì nó đưa ra hình dung một dự án tương tự như những dự án khác của Michigan State. Nhưng lá thư này cũng có những ý tưởng rõ ràng xuất phát từ Ngô Đình Diệm, chẳng hạn như điều kiện đòi chương trình này đặt căn cứ ở thành phố Huế quê ông. Phạm vi của dự án đề xuất - lớn hơn tất cả các chương trình hiện có ở Michigan States lúc đó – có vẻ cũng chủ yếu là do Ngô Đình Diệm hoạch định. Ông tuyên bố rằng Việt Nam cần sự giúp đỡ trong nhiều lĩnh vực khác hẳn nhau như “khoa học cảnh sát”, “vấn đề ngoại thương” và thậm chí “nghiên cứu về việc chọn theo các thể chế dân chủ”. [17] Giờ đây nhìn lại, đề xuất này chứng minh khả năng tiên đoán phi thường của Ngô Đình Diệm trong việc tìm cách định hướng hình thức và nội dung của cái sau này trở thành nguồn viện trợ khổng lồ Mỹ đổ vào giúp chính phủ của ông. [18]

Khả năng giành được sự hậu thuẫn của những ủng hộ viên có thế lực người Mỹ được thể hiện rõ trong một bữa tiệc trưa tổ chức nhằm vinh danh ông ở Washington vào ngày 8 tháng 5 năm 1953. Bữa tiệc này do Thẩm phán Toà án Tối cao William O. Douglas chủ trì; Douglas sang thăm Ðông Dương một năm trước đó và tin rằng nơi này cần có một Lực lượng thứ Ba. Douglas tổ chức bữa tiệc trưa này để giới thiệu Ngô Đình Diệm với những người Mỹ khác có cùng suy nghĩ như ông; khách mời gồm có các nghị sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy; số mệnh đã định sẵn là hai người này sẽ đóng vai trò then chốt trong quan hệ của Ngô Đình Diệm với Mỹ. [19] Ngô Đình Diệm gây được ấn tượng với hai Nghị sĩ này và những khách mời khác; ông mạnh mẽ lên án Bảo Ðại và viễn cảnh độc lập cho Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, và đãi thính giả câu chuyện ông gặp Hồ Chí Minh vào năm 1946. Sau này nhớ lại, Mansfield nói rằng ông ta rời bữa tiệc “với cảm giác rằng nếu có người nào có thể nắm được miền Nam Việt Nam, phải là ai đó giống như Ngô Ðình Diệm.” [20]

Như nhiều sử gia đã chỉ rõ, khả năng quan hệ của Ngô Đình Diệm với những người Mỹ như Fishel, Mansfield và Kennedy cuối cùng đã có kết quả. Ðặc biệt là sau năm 1954, các quan hệ cá nhân ông thiết lập được trong thời gian sống lưu vong đã giúp giành được và củng cố sự ủng hộ chính thức của Washington dành cho ông và chính phủ của ông. Nhưng vào tháng 5 năm 1953, ông chưa ở vào vị thế có thể gặt hái những lợi tức chính trị này, và những người bạn Mỹ của ông cho đến khi đó mới chỉ ủng hộ ông bằng những lời động viên và ủng hộ tinh thần. Vì vậy, ông chuẩn bị tìm kiếm những phương tiện khác để đạt được mục tiêu. Tại bữa tiệc trưa ở Washington, Ngô Đình Diệm tuyên bố mình sắp sang Pháp, và ông hy vọng cuối cùng sẽ quay lại Việt Nam. [21] Dĩ nhiên là cả ông và tất cả những người khác có mặt trong buổi trưa hôm đó có thể đoán trước được những sự kiện sẽ diễn ra trong 12 tháng tiếp sau đó và đỉnh điểm là, gần như đúng vào cùng ngày đó một năm sau, quân đội Pháp đã đầu hàng Việt Minh ở Ðiện Biên Phủ. Dù sao đi nữa, ngay cả khi Ngô Đình Diệm không lường trước được những sự kiện đó, thì ông cũng ở một vị thế thuận tiện để có thể khai thác chúng. Vào mùa xuân năm 1953, ông đã đặt kế hoạch cho cuộc trở về chính trị của mình; sức đẩy quan trọng không phải từ những người hâm mộ mới ở Mỹ, mà từ những ủng hộ viên trung thành của ông ở Việt Nam.

Người giữ anh/em [22] : Sự nổi lên của Ngô Đình Nhu, 1950-1953

Đã từ lâu, người ta cho rằng, trong thời gian sống lưu vong, Ngô Đình Diệm không nắm được các sự kiện và tư tưởng tại Việt Nam; việc ông sống tại các chủng viện và các dòng tu Công giáo ở Hoa Kỳ và châu Âu được coi là dấu hiệu chứng tỏ ông muốn rút lui khỏi các vấn đề của thế giới nói chung, và vấn đề chính trị nói riêng. Ngay cả trước khi Ngô Đình Diệm kết thúc thời gian sống lưu vong, một số quan chức Hoa Kỳ đã chế giễu rằng ông như người “Yogi bí ẩn”, người vừa “thoát ra khỏi nhà dòng bước vào một thế giới lạnh lùng” và vì vậy, không sẵn sàng cho những nhiệm vụ chính trị dễ gây nản lòng đang chờ đợi ông phía trước. [23] Những người đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông cũng thường đồng ý rằng ông bị cô lập trong thời gian sống lưu vong, và vì vậy họ thường tả ông đang bơi một cách vô vọng giữa biển cả của những mưu đồ sau khi ông trở về Sài Gòn vào đầu mùa hè năm 1954.

Một hình ảnh như vậy về Ngô Đình Diệm mở ra ít nhất hai điểm đáng tranh luận. Trước tiên, những diễn giải này đã không chú ý tới khả năng rằng, thời gian sống trong tu viện của ông có thể không bị cô lập như những gì mọi người thấy vào thời điểm đó, mà mang tính chiến lược nhiều hơn. Chúng ta biết rất ít về những hoạt động của Ngô Đình Diệm trong thời gian 1951-1954 khi ông sống tại các chủng viện và tu viện ở Hoa Kỳ và Bỉ, và giả thuyết rằng ông bị cô lập với thế giới bên ngoài trong thời gian ông sống ở những tu viện này là một giả thuyết không có bằng chứng. Trên thực tế, có nhiều khả năng các học viện này đã cung cấp cho ông những phương tiện khá an toàn để liên lạc với những đồng minh của mình ở Đông Dương, bởi vì chúng cho phép ông sử dụng mạng lưới quốc tế của Công giáo, những người có thể mang tin nhắn một cách an toàn mà không bị cảnh sát Pháp ngăn chặn. Ví dụ, ông Ngô Đình Diệm gặp nhà hoạt động Công giáo người Việt Trần Chánh Thành trong thời gian ông lưu lại một chủng viện ở Bỉ vào đầu năm 1954. Vì ông Thành là một phụ tá thân tín của Ngô Đình Nhu ít nhất là từ năm 1952, và vì ông Thành rốt cuộc trở thành một trong những nhân vật quyền lực nhất trong chính phủ Ngô Đình Diệm, có vẻ hợp lý để kết luận rằng ông là người đưa tin tức cho Ngô Đình Diệm khi ông qua lại giữa châu Âu và Đông Dương trong suốt thời gian quan trọng này. [24]

Thứ hai, những lập luận Ngô Đình Diệm bị cô lập cũng bị phá vỡ bởi có những bằng chứng cho thấy rằng ông đã kết hợp những hoạt động trong thời gian lưu vong của mình với những nỗ lực của những người ủng hộ ông ở Đông Dương, những người đang chuẩn bị cho cuộc trở về của ông. Trong những giải thích hiện có về đường đến quyền lực của Ngô Đình Diệm, một trong những thiếu sót rõ ràng nhất liên quan tới những trợ giúp quan trọng của anh em ông. Bên cạnh những trợ giúp như đã nói ở trên của người anh lớn, Giám mục Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm cũng nhận được giúp đỡ của ba người em là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện. Tuy Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện đều đóng vai trò quan trọng trong những thành công sau này của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là người có những đóng góp quan trọng nhất.

Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện là hai người em út trong những anh em họ Ngô, và là hai người hoàn toàn khác biệt nhau. Ngô Đình Cẩn là người sống xa lánh, hay gắt gỏng và là người ít học nhất trong các anh em; ông chưa một lần đi nước ngoài, và gần như cả đời mình, ông chỉ sống ở Huế. Trái lại, Ngô Đình Luyện là một kỹ sư phong nhã, theo chủ nghĩa thế giới, đã từng du học ở châu Âu và nói được vài thứ tiếng. Không ngạc nhiên mấy, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện giúp đỡ Ngô Đình Diệm theo những cách khác nhau. Đầu những năm 1950, Ngô Đình Cẩn bắt đầu xây dựng một hệ thống bí mật những người ủng hộ ở miền Trung Việt Nam; ông sử dụng tổ chức này để xây dựng và củng cố sự ủng hộ cho Ngô Đình Diệm ở phần này của đất nước, và đồng thời cũng mở rộng những ảnh hưởng cá nhân của ông ở đây. Trong khi đó, Ngô Đình Luyện làm đại diện cho Ngô Đình Diệm ở châu Âu. Sau khi Ngô Đình Diệm rời Hoa Kỳ đến Pháp tháng 5, 1953, Ngô Đình Luyện trở thành cố vấn chính và là đại diện riêng của Ngô Đình Diệm trong những cuộc thương lượng với Bảo Đại và những nhà lãnh đạo Việt Nam khác. [25]

Gia đình họ Ngô không thiếu những cá nhân có cá tính lạ thường và khó hiểu; tuy nhiên, so với mọi người, ông Ngô Đình Nhu được coi là người bất thường và bí ẩn nhất. Là người thứ tư trong sáu anh em, người ta nói ông cẩn trọng, sâu sắc và kín đáo. Ông không quê mùa như Ngô Đình Cẩn hay tao nhã như Ngô Đình Luyện, ông cũng có vẻ không quan tâm đến việc triều chính, điều mà Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm đã quá bận tâm. Quả vậy, là một người đàn ông trẻ, ông Ngô Đình Nhu có vẻ ham sách vở hơn làm chính trị. Những năm 1930 ở Paris, trước tiên, ông dành nhiều thời gian học về văn chương rồi sau đó học về chữ cổ và ngành quản thư tại École des Charte nổi tiếng. Cuối những năm 1930, ông trở về Việt Nam và làm việc trong ngành lưu trữ; đến 1945 ông giữ chức vụ trụ cột tại nơi sau này là Thư viện Quốc gia ở Hà Nội. [26] Sau Cách mạng tháng Tám, ông Ngô Đình Nhu tham gia nhiều hơn vào chính trị, đặc biệt trong những cố gắng của các anh em ông để vận động sự ủng hộ của những người Việt Nam Công giáo. Tuy vậy, cho đến khi Ngô Đình Diệm rời Việt Nam, ông vẫn tương đối mờ nhạt. Với người vợ trẻ của ông, Trần Lệ Xuân – sau này được thế giới biết đến là “Madame Nhu” nhiều tiếng tăm và tai tiếng – trong năm 1950, Ngô Đình Nhu vẫn sống khá ẩn dật ở thành phố Đà Lạt, nơi ông theo đuổi thú vui trồng hoa lan. [27]

Giống như những anh em của mình, ông Ngô Đình Nhu là người sùng kính đạo Công giáo và trung thành với Nho giáo. Tuy nhiên, giống như việc học vấn và sự nghiệp ban đầu của ông khác với những anh em khác trong gia đình họ Ngô, sự phát triển về tư tưởng và chính trị của ông cũng theo một lối khác hẳn. Ở Pháp, Ngô Đình Nhu chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết gia Công giáo Emmanuel Mounier. Trong những cuốn sách và các trang viết trên tạp chí Esprit của mình, Mounier phản ứng lại thời Đại khủng hoảng [28] và những đau khổ mà nó gây bằng cách phát triển một lý thuyết phê bình chủ nghĩa tư bản tự do; ông đặc biệt chế nhạo thiên kiến tự do với chủ nghĩa cá nhân, tranh luận rằng điều đó chắc chắn dẫn đến sự cô lập, bất hoà và bóc lột. Nhưng, là một người Công giáo bảo thủ, Mounier không đồng tình với chủ nghĩa Marx vì tư tưởng duy vật của nó huỷ hoại những gì mà ông gọi là những chiều kích “tâm hồn” trong bản tính con người. Thay vì [chọn theo] chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản, Mounier hướng đến một trật tự xã hội hậu tư bản, ở đó, cả những nhu cầu về vật chất của cá nhân và sự thịnh vượng chung đều được hưởng lợi – nhưng một trong hai điều này không trở thành trọng tâm độc nhất trong chính sách của xã hội. Thay vào đó, Mounier đề nghị đặt trọng tâm vào việc phát triển một con người toàn diện (la personne), mà ông định nghĩa là gồm cả những nhu cầu về tinh thần và vật chất. Nhấn mạnh của Mounier vào “con người” như lối thoát cho “cá nhân” là đề tài chủ yếu trong những bài viết của ông, và vì vậy ông đặt cho tư tưởng của mình là “chủ nghĩa nhân vị”. [29]

Khi Ngô Đình Nhu Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông trở thành một người say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tín lý của Mounier có thể được áp dụng ở Việt Nam. [30] Đặc biệt sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có khả năng là “con đường thứ ba” cho việc phát triển xã hội là điều hết sức thu hút Ngô Đình Nhu. Với Ngô Đình Nhu, việc Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản trở nên thích hợp với vấn đề chính trị của Lực lượng thứ Ba mà Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy ông anh lớn của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc những nhận xét và bài viết của Ngô Đình Diệm trong giai đoạn này nhắc đến những thuật ngữ của chủ nghĩa Nhân vị.

Sau năm 1950, Ngô Đình Nhu trở thành một trong những nhân vật đi đầu trong việc vận động những người Việt không theo cộng sản ủng hộ cho Ngô Đình Diệm. Đồng thời, ông cũng hăng hái trong việc đề xướng chủ nghĩa Nhân vị làm đường hướng cho việc phát triển chính trị và xã hội của Việt Nam. Tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam. Phát biểu với đa số những người không theo Công giáo tại buổi nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ngô Đình Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, đều phải cùng nhau có “một sự nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó. Những thế lực này bao gồm chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, cả hai tư tưởng đều đem lại “sự giải phóng giả trá” và chiến tranh liên miên. [31]

Những thính giả hôm đó không biết điều này: bài diễn văn của ông Ngô Đình Nhu báo hiệu cho những việc sắp xảy đến. Ngoài việc dài dòng, rắc rối và trừu tượng – những phẩm chất ở ông mà, trong thập niên tiếp theo đó, nhiều người Việt Nam đã được làm quen và cảm thấy khó chịu – bài diễn văn này chuyên chở những đề tài then chốt, mô tả đặc điểm của những diễn văn và tuyên bố của cả ông và Ngô Đình Diệm sau này về ích lợi và giá trị của chủ nghĩa nhân vị. Những đề tài này không chỉ nói đến những nguy hiểm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, mà còn nói đến sự quan trọng của lợi ích “phần hồn” thay vì chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, bài diễn văn cũng làm nổi bật niềm tin chắc chắn của Nhu rằng Việt Nam cần một cuộc cách mạng toàn diện:

“Đó là những điều đại cương, rất vắn tắt của một cuộc cách mạng chính-trị kinh-tế, nhắm đích đặt con người vào trung tâm của triển vọng thế giới. Tôi nói: cách-mạng, bởi vì chúng ta sẽ làm một việc vô cùng phí công nếu chúng ta gắng gỏi tô chữa những đường nứt nẻ ở một cái nhà đã lung lay, lúc cần phải thay đổi cả cơ cấu nội bộ của toàn thể cái nhà ấy.” [32]

Như Ngô Đình Diệm, từ đầu những năm 1950, Ngô Đình Nhu hiểu rất rõ rằng việc tạo ra một Lực lượng thứ Ba ở Việt Nam phụ thuộc vào nhiều điều hơn là chỉ hứa suông trở về với những truyền thống, giá trị và thực hành cổ xưa. Để có thể thành công, một phong trào như vậy phải đề xướng chuyển đổi và cách mạng – mặc dù không theo đường hướng cộng sản. Ngô Đình Nhu tin rằng chủ nghĩa nhân vị có thể tạo nên nền tảng cho một tư tưởng phổ quát mới, thu hút mọi người Việt Nam, không Công giáo cũng như Công giáo.

Nếu Ngô Đình Nhu coi mình là một triết gia, ông cũng biết rằng phong trào mà ông đang mường tượng cần rất nhiều công sức để tổ chức; như những gì xảy ra cho thấy, tài năng thật sự của ông nằm ở vai trò tổ chức chứ không phải ở vai trò thành lập. Có lẽ ngay từ đầu những năm 1950, Ngô Đình Nhu đã thành lập nòng cốt cho một đảng chính trị mới, sau này được biết đến với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường được cả người Việt và người Mỹ gọi là “Cần Lao”. [33] Vào giai đoạn đầu, tổ chức Cần Lao dường như hoạt động hoàn toàn trong vòng bí mật, và chúng ta hầu như không biết gì về những năm đầu tồn tại của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác. Sau năm 1954, sự tồn tại của đảng này được chính thức công nhận, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động việc ủng hộ một phong trào đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.

Việc Ngô Đình Nhu chọn tên cho đảng chính trị của ông bộc lộ nhiều điều. Đặc biệt, việc dùng chữ cần lao phản ánh quan tâm đặc biệt của Ngô Đình Nhu đến khả năng chính trị tiềm tàng của người dân lao động Việt Nam. Ngược lại với giả định của một số nhà quan sát, sự quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ) không bắt nguồn từ việc ông thán phục những thực hành tổ chức kiểu Lê-nin, mà chúng liên quan đến một số tư tưởng của phong trào công đoàn Pháp. Đặc biệt, ông ủng hộ khái niệm công đoàn, trong đó, công nhân được tổ chức thành từng nhóm như nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm rằng quyền lợi của họ không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc. [34]

Ngoài những hoạt động bí mật của đảng Cần Lao, Ngô Đình Nhu còn có những tổ chức khác công khai hơn. Những đề xướng này bao gồm việc thành lập liên minh với nhà hoạt động công đoàn Trần Quốc Bửu, một người tổ chức kỳ cựu, đã nhiều thời kỳ có quan hệ với nhóm Cao Đài và Việt Minh. Vào cuối những năm 1940, sau khi vỡ mộng với chủ nghĩa cộng sản, Trần Quốc Bửu theo một người tổ chức nghiệp đoàn lao động của Pháp; ông này đã chỉ cho ông những tư tưởng và những sách lược của phong trào công đoàn mậu dịch Dân chủ Thiên Chúa Giáo. Sau một chuyến đi ngắn đến châu Âu, Trần Quốc Bửu trở về Việt Nam năm 1949 và bắt đầu tổ chức công đoàn cho những công nhân thành phố và nông thôn một cách bất hợp pháp. Năm 1952, những thay đổi về luật lao động của Quốc gia Việt Nam cho phép ông Bửu hợp pháp hoá liên minh những công đoàn của ông dưới tên gọi “Liên minh Công nhân Thiên Chúa giáo Việt Nam” và là thành viên của Liên minh Công đoàn Mậu dịch Thiên Chúa giáo Thế giới có trụ sở tại Brussel. [35] Không rõ hai người này bắt đầu hợp tác với nhau khi nào và ra sao, nhưng vào năm 1953, Ngô Đình Nhu có những liên hệ thân thiết với Liên minh của Trần Quốc Bửu. Tháng Hai năm đó, Ngô Đình Nhu và các đồng minh của ông bắt đầu xuất bản tạp chí Xã hội ở Sài Gòn, mạnh mẽ ủng hộ Trần Quốc Bửu và liên minh của ông. Ngoài việc công khai ủng hộ chủ nghĩa công đoàn, tạp chí này cũng mạnh mẽ ủng hộ việc thành lập những tổ chức hợp tác công nhân và nông dân – một lập trường báo trước chính sách mà Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ thi hành một khi đã trở thành những lãnh đạo của miền Nam Việt Nam. [36]

Như những sự kiện cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 cho thấy, nỗ lực của Ngô Đình Nhu nhằm xây dựng sự ủng hộ rộng rãi của công nhân và nông dân Việt Nam cho mục đích cách mạng của ông sẽ bị thất bại về lâu về dài. Tuy nhiên, thất bại sau cùng không loại trừ khả năng của những thắng lợi tạm thời; việc anh em họ Ngô bị lật đổ sau này không có nghĩa rằng tư tưởng và dự định của họ đều luôn luôn không có hiệu quả, hay thất bại từ khi mới bắt đầu. Thật vậy, trong một thế giới chính trị bè phái và chia rẽ như ở Đông Dương vào những năm 1950, khả năng nắm quyền hành qua những tổ chức quần chúng và những mạng lưới bí mật của Ngô Đình Nhu là một công cụ hiệu nghiệm. Ngô Đình Diệm dường như hiểu điều này, và trong suốt thời gian sống lưu vong, ông trông cậy vào Ngô Đình Nhu để đặt nền móng chính trị cho cuộc trở về của ông. Như đã thấy, niềm tin Ngô Đình Diệm đặt vào người em trai của mình là hoàn toàn đúng; đến mùa hè năm 1953, Ngô Đình Nhu đã soạn ra những chiến thuật và chiến lược để đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền.

(Còn tiếp 1 phần)

Bản tiếng Việt: © 2007 talawas


[1]Người Pháp đã dò tìm được lệnh ám sát này và thông báo với Diệm rằng họ không thể bảo vệ ông được. Xem Ðiện của Heath gửi Acheson, 28 July 1950, United States National Archives II, Record Group 59, State Department Decimal File 751G.00/7-2850. Phần tham khảo cho tư liệu USNA 2 là từ nhóm này và sẽ được trích dẫn với số Decimal File.
[2]Bản dịch Thư tín, Ngô Ðình Diệm gửi Wesley Fishel, 3 June 1951, Michigan State University Archives, Wesley R. Fishel papers, Box 1184, Folder 33. Bức thư không gửi đích danh cho Fishel, nhưng nội dung và ngày tháng trong thư cho thấy rất nhiều khả năng là Diệm viết cho Fishel.
[3]Ðiện báo, Gullion to Sec. State, 24 Jan 1951, FRUS, 1951, vol.6 (Washington: GPO, 1977), trang 359-361; cũng xem điện tín, Heath to Sec. State, 28 July 1950, USNÀ, 751G.00/7-2850. Theo Gullion, người lúc đó là Ðại biện (Chargé d’Affairs) tại toà Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn năm 1950 và có biết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục, âm mưu Bảo Long được dự định với việc Cường Ðể và Hoàng hậu Nam Phương đồng làm nhiếp chính; Nam Phương – không như chồng bà – theo Công giáo.
[4]Ðể biết thêm về những nỗ lực cuối cùng của Cường Ðể nhằm chấm dứt cuộc sống lưu vong, xem Hammer, Struggle for Indochina, trang 275. Ðể biết thêm về việc Cường Ðể thừa nhận mình và Ngô Đình Diệm đã bàn bạc về việc Cường Ðể có thể đóng một vai trò chính trị ở Ðông Dương như thế nào, xem Memorandum of Conversation, Dallas Coors, 8 Jan 1951, USNA 2, 794.00/1-851. Việc đưa hài cốt ông về nước vào năm 1956 được đăng trên The Times of VN Weekly, 21 April 1956, trang 8.
[5]Phỏng vấn Giáo sư Ralph Smuckle, Washington DC, Hune 2001.
[6]Fishel kể lại việc gặp Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục ở Tokyo trong “Memorandum on Ngo Dinh Diem”, 28 Aug 1950, được đính kèm trong Báo cáo của Spinks gửi Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 2 tháng 9 năm 1950, USNA 2, 751G.00/9-250. (Cảm ơn Joseph Morgan đã cung cấp cho tôi một bản sao của tài liệu này.) Bản bị vong lục không có chữ ký, nhưng các văn bản khác của Bộ Ngoại giao cho thấy rõ Fishel là tác giả; xem bị vong lục tháng 1 năm 1951 trong chú thích 26. Người Nhật giúp tổ chức tất cả các cuộc gặp gỡ ở Tokyo giữa Ngô Đình Diệm, Cường Ðể và Fishel trong mùa hè năm 1950 là một nhà văn cấp tiến và phiêu lưu tên Komatsu Kiyoshi; xem bị vong lục của Fishel đã trích dẫn, và Demaree Bess, “Bright spot in Asia” trong Saturday Evening Post, 15 Sept 1956, trang 130.
[7]Ðiện tín, Quyền Ngoại trưởng Mỹ gửi Toà Ðại sứ ở Sài Gòn, 28 Sept. 1950, FRUS 1950, vol 6 (Washington: GPO, 1976) trang 884-886.
[8]Ðiện tín, Acheson gửi Sài Gòn, 16 Jan 1951, FRUS, 1951, vol.6, trang 348. Một tường thuật hơi khác về cuộc trao đổi này giữa Ngô Đình Diệm và đại diện của Bảo Ðại được ghi lại trong Memorandum of Conversation, William O’Sullivan, 15 Jan 1951, USNA 2, 751G.00/1-1551.
[9]Cuối thập niên 1950, Ngô Đình Diệm giải thích tại sao ông quay trở lại Mỹ trong D.M.Coors, “Conversation with Mr. Ngo Dinh Diem, prominent Vietnamese Catholic leader,” 26 July 1951, USNA 2, 751 G.00/7-2651.
[10]Như trên; cũng xem điện tín ngày 28 tháng 9 năm 1950 đã trích dẫn trong chú thích 29.
[11]Joseph Morgan, The Vietnam lobby: The American Friends of Vietnam, 1955-1975 (Chapel Hill, NC: University of North Carolina Press, 1997) trang 1-14.
[12]Ví dụ, trong một bị vong lục năm 1951 Ngô Đình Diệm viết cho một thành viên người Công giáo trong Quốc hội, ông tả về giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu ở miền bắc Việt Nam như một “vùng Lực lượng thứ Ba”, nơi dân chúng “hiểu những giá trị thật của phương Tây” và “không chống phương Tây mà chống thực dân”; Ngô Ðình Diệm, “Indo China” bị vong lục tháng 7 năm 1951, đi kèm trong thư của dân biểu Edna Kelly gửi Nghị sĩ Mike Mansfield, 20 tháng 7 năm 1951, University of Montana Mansfield Library, Mike Mansfield Archives, Series IV, Box 221, Folder 14. (Tôi cảm ơn Don Oberdorfer đã cung cấp cho tôi bản sao của bị vong lục này.)
[13]Vào những năm 1960, người ta cho rằng sự ủng hộ Mỹ dành cho Ngô Đình Diệm chủ yếu là nhờ vị Hồng y nhiều thế lực Francis Spellman ở New York; Robert Scheer, How the United States got involved in Vietnam (Santa Barbara, CA: Center for the Study of Democratic Institution, 1965), trang 20-25. Những biện luận gần đây hơn theo hướng này ít cố tình gán ép hơn, nhưng vẫn duy trì quan điểm tôn giáo là cốt lõi sức hút của Ngô Đình Diệm với Mỹ; ví dụ, xem Seth Jacobs, “‘Sink or swim with Ngo Dinh Diem’: Religion, Orientalism and United States intervention in Vietnam, 1950-1957” (luận án Tiến sĩ, Northwestern University, 2000).
[14]Ví dụ, trong hai bài phát biểu của Ngô Đình Diệm vào khoảng cuối thời gian ở Mỹ, Diệm chỉ nói thoáng qua một lần về đạo Cơ Ðốc; Ngô Ðình Diệm, “Recent development in Indochina” (Ðọc tại Hội nghị Thường niên lần thứ 5 của Hiệp hội Viễn Ðông, Cleveland, Ohio, 1 April 1953) và “Talk by Mr. Ngo Dinh Diem before Southeast Asia Seminar, Cornell University” (20 Feb.1953). Bản sao của cả hai diễn văn này đều có trong Thư viện Kroch của Ðại học Cornell.
[15]Ðể biết bản tóm tắt của chương trình hỗ trợ kỹ thuật của Mỹ cho các Quốc gia Liên hiệp, xem pamphlet của Mutual Security Agency có tên “US technical and economic assistance to the Far East: A part of the Mutual Security program for 1952-1953” (Washington: MSA, March 1952). (Bản sao của pamphlet này có trong USNA 2, RG59, US State Department Lot Files, Box 1, Entry 1393.) Xem tường thuật kinh điển về chương trình Point Four và hậu quả của nó trong Robert Packenham, Liberal America and the Third World: Political development ideas in foreign aid and social science (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1973).
[16]Paul L. Dressel, College to university: The Hannah years at Michigan State, 1935-1969 (East Lansing, MI: Michigan State University Press, 1987) trang 276-277.
[17]Thư, Wesley Fishel gửi MacDonald Salter, 14 March 1952, MSUA, Fishel Papers, Box 1184, Folder 14.
[18]Thư của Fishel mô tả đề xuất này hình như không giành được mấy quan tâm của Mutual Security Agency vào năm 1952; nhưng ý tưởng mà Ngô Đình Diệm và Fishel phác thảo cuối cùng đã được thực hiện qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật mà trường Michigan States thực hiện ở miền Nam Việt Nam sau khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền vào năm 1954. Xem John Ernst, Forging a fateful alliance: Michigan State University and the Vietnam War (East Lansing, MI: Michigan State University Press, 1998).
[19]William O. Douglas, North from Malaya: Adventure on five fronts (Garden City, NY: Doubleday, 1953), trang 147-210; xem trang 180-181 để biết bức tranh cảm thông mà Douglas dựng lên về Ngô Đình Diệm như một khả năng “trung thực và độc lập” thay cho người Pháp. Giống Douglas, Mansfield và Kennedy cũng sang Ðông Dương và chuyển hướng ủng hộ cho mục tiêu thành lập Lực lượng thứ Ba. Những người Mỹ khác tham dự bữa tiệc trưa đó gồm có: Bill Costello, một phóng viên cho đài truyền hình CBS; Ray Newton, một quan chức trong the American Friends Service Committee (Uỷ ban Trợ giúp Những người bạn của Mỹ); Edmund S. Gullion, trong Phòng Kế hoạch Chính sách (Policy Planning Staff) của Bộ Ngoại giao, người đã gặp Diệm trước đây khi ông ta là Ðại biện toà Công sứ Mỹ ở Sài Gòn; và Gene Gregory, người cũng đã từng làm ở toà Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn, và là người đã giới thiệu Ngô Đình Diệm với Douglas sau khi Douglas đi Ðông Dương về. Tham dự bữa tiệc còn có Hoàng Văn Ðoàn, Giám mục vùng Bắc Ninh ở miền bắc Việt Nam. Tác giả có được thông tin này qua cuộc phỏng vấn Gene Gregory, thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2002 và qua thư Douglas gửi cho Ngô Đình Diệm vào ngày 8 tháng 5 năm 1953, có tại Library of Congress Manuscript Division (Phòng Bản thảo Thư viện Quốc hội Mỹ), William O. Douglas Papers, Box 1716.
[20]Don Oberdorfer phỏng vấn Mike Mansfield, 28 tháng 8 năm 1998. (Tôi cảm ơn ông Oberdorfer đã cho phép tôi sử dụng trích dẫn này ở đây). Mansfield có lẽ định nói “Việt Nam” thì đúng hơn là “miền Nam Việt Nam”, vì vào tháng 5 năm 1953, miền Nam chưa tồn tại như một thực thể chính trị độc lập. Về bữa tiệc này, xem Memorandum of Conversation, Edmund S. Gullion, 8 May 1953, FRUS 1952-1954, vol 13, trang 553-554. Tài liệu này (trong cả bản được in và bản gốc trong Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ) ghi là vào ngày 7 tháng 5 năm 1953. Nhưng dựa vào những tài liệu khác cùng thời gian đó, tôi tin rằng bữa tiệc này thực sự đã diễn ra vào ngày 8 tháng 5; xem thư Douglas gửi Ngô Đình Diệm, trích dẫn trong chú thích 41, có ghi rõ cuộc gặp vào ngày 8. Cũng xem phần tài liệu kèm theo trong Thư, Kennedy gửi Dulles, 7 May 1953, USNA 2, 751G.00/5-753; thư này cho biết là vào sáng ngày 8 tháng 5, văn phòng Kennedy khẩn thiết đề nghị Bộ Ngoại giao trả lời tức khắc những câu hỏi về chính sách hiện thời của Mỹ ở Ðông Dương.
[21]Xem Memorandum of Conversation trích dẫn trong chú thích 42.
[22]Nguyên văn: “brother’s keeper”, trong Kinh thánh, Sách Sáng thế (Genesis) 4:9.
[23]Xem Telegram, Dillon to State Dept., 24 May 1954, FRUS, 1952–1954, vol. 13, pp. 1608–9.
[24]Xem Times of Viet Nam Weekly, 17 Mar. 1956, trang 7; Georges Chaffard, Indochine: Dix ans d’indépendance (Paris: Calmann-Lévy, 1964), trang 30.
[25]Như trên, trang 27–30; và ‘Ngo Dinh Luyen’, tóm tắt tiểu sử, không rõ ngày tháng, MAE, série VLC, sous-série Sud-Viêtnam, dossier 22. Về Ngô Đình Cẩn, xem Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, 1940–1965 (Saigon: Trí Dũng, 1972), trang 180–9.
[26]“Ngô Ðình Nhu”, trong Souverains et notabilités d’Indochine (Hanoi: Éditions du Gouvernement Généralde l’Indochine, IDEO, 1943), trang 62; “Curriculum Vitae of Mr. Ngo Dinh Nhu”, không rõ ngày tháng, Texas Tech University, The Vietnam Archive, John Donnell collection, Box 2, Folder 22, Box 2 [hereafter ‘Donnell papers’]. Ngô Đình Nhu dường như vẫn giữ công việc của mình tại Thư viện Quốc gia trong suốt quãng thời gian Hà Nội nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh; xem “Lịch sử đầy đủ về gia đình Cụ Ngô-Đ.-Diệm”, Saigon Mới, 23 tháng 6 1954.
[27]Tác giả phỏng vấn Gene Gregory, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3, 2002. Một trong những phụ tá của Ngô Đình Nhu sau này nhớ lại đã tháp tùng ông, thay mặt Ngô Đình Diệm đi thăm một vùng Công giáo ở gần biên giáo Lào năm 1946; A. J. Langguth, Our Vietnam: The war, 1954–1975 (New York: Simon and Schuster, 2000), trang 87. Một nguồn tin Công giáo viết rằng Ngô Đình Nhu buộc phải trốn khỏi Hà Nội bằng đường biển đến giáo phận Phát Diệm khi chiến tranh nổ ra vào tháng 12, 1946 và từ đó đi đường bộ vào Huế; Ðoàn Độc Thư and Xuân Huy, Giám mục Lê Hữu Từ, trang 116.
[28]Đây là thời kỳ kinh tế thế giới khủng hoảng trầm trọng, bắt đầu bằng việc thị trường chứng khoáng rớt giá ngày 24 tháng 10, 1929. Trước tiên, khủng hoảng xảy ra ở Hoa Kỳ rồi nhanh chóng lan rộng ra các nước châu Âu và mọi nơi trên thế giới. – ND.
[29]Xem Emmanuel Mounier, Personalism, tr. Philip Mairet (London: Routledge and Paul, 1952), trang 17-19 (personalism) và 103-5 (social order). Cái nhìn của Mounier và những người Pháp theo chủ nghĩa Nhân vị có thể được phân biệt với chủ nghĩa Nhân vị Hoa Kỳ, phát triển ở Boston vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dưới quyền lãnh đạo trí thức của Borden Parker Bowne. Mặc dù cả hai nhánh của chủ nghĩa Nhân vị đều lấy cảm hứng từ thần học Công giáo La Mã. Những người Mỹ theo chủ nghĩa Nhân vị thường là những nhà tư tưởng vững vàng hơn là những người Pháp, là những người chấp nhận sự tồn tại độc lập của thực tế vật chất mặc dù họ tranh luận rằng nó không nên được nhấn mạnh quá mức. Xem “Personalism” trong The enclyclopedia of philosophy, ed. Paul Edwards, vol. VI (New York: Macmillan, 1967), 106-0, và “Personalism” trong The Cambridge dictionary of philosophy, ed. Robert Audi (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), trang 575.
[30]Việc dịch Personalism là nhân vị, Ngô Đình Nhu theo cách của Cha Bửu Dương, một linh mục Công giáo và là một học giả, người đã đặt ra cụm từ này trong những bài giảng của ông những năm 1940. Xem Nguyen Trai, “The government of men in the Republic of Vietnam”, (bản thảo chưa xuất bản, 1962), trang 139; một bản sao của tài liệu này nằm ở Widener Library, Harvard University. Không rõ ông Ngô Đình Nhu có học với Mounier ở Pháp hay không; một số những phụ tá người Việt của ông cho rằng ông đã từng học với Mounier, nhưng ít nhất là một lần, Ngô Đình Nhu đã phủ nhận việc này. Xem “Nhu and Personalism”, một ghi chú không rõ ngày tháng, Donnell paper, Box 3, Folder 14.
[31]Xem Ngô Đình Nhu, “Sự góp sức của người Công giáo vào hoà bình ở Việt Nam” (bài diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị Đà Lạt), được in lại trong Xã hội, tháng 2, 1953, trang 5, 14, 18-22.
[32]Như trên, trang 21.
[33]Thời gian và hoàn cảnh chính xác của việc thành lập đảng Cần Lao vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng dường như, chắc chắn nó được thành lập trước ngày Ngô Đình Diệm trở về vào năm 1954 sau thời gian sống lưu vong; ông nói với Wesley Fishel năm 1955 rằng nó được lập ra vào khoảng năm 1952. Xem Memorandum, Fishel gởi đến Collins, 7 tháng 3, 1955, FRUS, 1955-1957, vol. 1 (Washington: GPO, 1985), trang 111.
[34]Khuynh hướng theo chủ nghĩa công đoàn của đảng Cần Lao và những người sáng lập sau này được các quan chức của đảng này thừa nhận: “Chương trình của Cần Lao Nhân Vị đi theo con đường của chủ nghĩa công đoàn, ủng hộ việc đồng quản lý công nghiệp quốc gia bởi đại diện của giới tư bản và lao động và sự tham dự của công nhân vào lợi nhuận và phát triển kỹ thuật của những ngành công nghiệp. Đảng đã nắm một vị thế mạnh trong việc ủng hộ cải cách điền địa cũng vì lý do này, là quyền sở hữu là quyền lợi của người công nhân”; Times of Vietnam Weekly, 25 tháng 2, 1956, trang 9.
[35]Xem Edmund S. Wehrle, ‘“No more pressing task than organization in Southeast Asia”: The AFL-CIO approaches the Vietnam War, 1947–1964’, Labor History, 42, 3 (2001): 277–95; Times of Vietnam Magazine, 4 Mar. 1962, trang 18–19. Đáng chú ý là, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam không đả động đến việc họ liên kết với Thiên Chúa giáo; điều này rõ ràng phản ánh quyết tâm của ông Bửu trong việc thu hút những công nhân không theo Thiên Chúa giáo cũng như những người Thiên Chúa giáo, và việc bản thân ông cũng là một người Phật giáo.
[36]Xem “Tổng liên đoàn Lao động V.N”, XH, tháng 2, 1953 trang 31, 34; “Bản kiến nghị của Liên-hiệp Nghiệp đoàn Trung Việt gởi Tổng liên đoàn Lao động V.N.”, XH, tháng 7 1953, trang 16; Dân Sinh, “Tìm hiểu tổ chức hợp tác xã”, XH, 15 tháng 9, 1953, trang 23; Dân Sinh, “Mục đích và phương pháp huấn luyện”, XH, ngày 10 tháng 11, 1953, 33-4 và Dân Sinh, “Màu sắc tổ chức hợp tác xã các nước”, trong cùng số, 28-9. 

Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004. Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 10.8.2007.