Monday, July 11, 2011

John C. Schafer - Hiện tượng Trịnh Công Sơn (phần 1 & phần 2)

Vy Huyền và Hoài Phi dịch
Hoà bình là gốc của nhạc.” [1]
(Nguyễn Trãi, thế kỷ 15)

Những kẻ viết nên những bài ca
còn quan trọng hơn cả
những kẻ làm nên luật pháp.”
(Theo Pascal và Napoléon.)

Tôi đến Việt Nam lần đầu tiên vào mùa hè năm 1968 trong vai trò tình nguyện viên của Tổ chức Tình nguyện Quốc tế (International Voluntary Services). Được bổ nhiệm dạy Anh ngữ tại trường Trung học Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng, tôi bắt đầu việc học hỏi về ngôn ngữ và văn hoá mới. Người Việt Nam, đặc biệt là học sinh, rất yêu thích những buổi trình diễn văn hoá, và tôi đã tham dự rất nhiều buổi như vậy. Tại những buổi trình diễn này, những nữ sinh, không còn vẻ e thẹn trong lớp khi tôi yêu cầu họ lặp lại một câu tiếng Anh đơn giản, trái lại họ ca hát mạnh dạn và thành thạo trước đám đông thính giả đang tán thưởng. Vào những năm cuối thập niên 1960 mọi người nghe nhạc không những ở trường học mà còn ở khắp cả Đà Nẵng và những đô thị khác ở miền Nam Việt Nam. Trong quán café và nhà hàng, các bài hát được phát ra từ những máy đĩa lớn, đua tranh cùng tiếng gầm của xe Honda và xe nhà binh đang chạy qua trên những con đường đầy bụi bên ngoài.

Rất nhiều những bài hát này được sáng tác bởi một ca/nhạc sĩ mang tên Trịnh Công Sơn. Nếu buổi trình diễn do nhà trường tổ chức, các ca sĩ thường hát một số những bài tình ca không nói đến chiến tranh của ông; nhưng ở những buổi tụ họp không chính thức, họ thường hát một thể loại tình ca khác, dạng như bài “Tình ca người mất trí”. Bài này được bắt đầu như sau:

Tôi có người yêu chết trận Plei-me
Tôi có người yêu ở chiến khu "Đ"
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới.

Và tiếp tục:

Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng

Trong bài hát này chúng ta thấy một số chủ đề mà Trịnh Công Sơn trở lại nhiều lần: nỗi buồn về chiến tranh, sự quan trọng của tình yêu – tình yêu giữa con người và tình yêu cho Việt Nam, đất mẹ - và sự quan tâm đến thân phận của con người, những con người Việt Nam và xa hơn nữa là cho tất cả nhân loại.

Trịnh Công Sơn qua đời sáu năm trước đây, ở tuổi 62 sau khi không chống chọi nổi căn bệnh tiểu đường và những bệnh khác rõ ràng bị trầm trọng thêm do việc ông uống rượu và hút thuốc lá quá nhiều. Khắp cả Việt Nam và những thành phố khác trên thế giới nơi có người Việt Nam định cư – từ Melbourne đến Toronto, từ Paris đến Los Angeles và San Jose – tất cả đều bày tỏ sự tiếc thương trước sự ra đi của ông và hàm ơn gần 600 ca khúc mà ông để lại cho đời. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hàng ngàn người dự tang lễ của ông và khắp nơi diễn ra những buổi trình diễn văn nghệ, một số chương trình được thu hình và trình chiếu lại trên TV, đặc biệt những ca sĩ trẻ hát những ca khúc của ông để nói lời chia tay với người đã làm rung động hàng triệu con tim. Sau khi dự buổi trình diễn, mà vé được bán sạch, “Đêm nhạc tưởng nhớ Trịnh Công Sơn”, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, vào ngày 29 tháng 4 năm 2001, tôi quyết định tìm kiếm những lý do của điều mà nhiều phê bình gia Việt Nam gọi là “Hiện tượng Trịnh Công Sơn” – sự nổi tiếng lạ thường của Trịnh Công Sơn và nhạc của ông.

Gọi những ảnh hưởng của người ca nhạc sĩ này là hiện tượng thật không ngoa chút nào. Nhật Tiến, một văn sĩ hiện đang sống tại California, gọi nhạc Trịnh Công Sơn là “tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất” bởi vì “nó đi thẳng vào đời sống” (1989,55). Ông có ảnh hưởng lớn nhất trong giai đoạn những năm 1960 và 1970 và những người ngưỡng mộ ông tha thiết nhất là người Việt ở khu vực thuộc sự kiểm soát của Việt Nam Cộng hoà trước đây. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, người miền Bắc bị cấm không được nghe nhạc của miền Nam. [2] Nhưng sau khi đất nước hợp lại năm 1975, số người hâm mộ nhạc Trịnh Công Sơn lan tràn ra cả nước, không còn chỉ riêng ở miền Nam nữa; và lúc qua đời, Trịnh Công Sơn là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Mặc dù ông sáng tác những nhạc phẩm mà trong Anh ngữ được gọi là nhạc phổ thông [3] - những ca khúc cho tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, chứ không chỉ riêng cho giới trí thức – những văn sĩ nổi tiếng và những nhà phê bình gọi ông là một thi sĩ và đã viết những bài viết uyên thâm về ông. Nhà phê bình văn học nổi tiếng Hoàng Ngọc Hiến gọi ca khúc “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ hai mươi (xem Nguyễn Trọng Tạo 2002, 13).

Vì tất cả những lý do này, hiện tượng Trịnh Công Sơn rất xứng đáng được nghiên cứu. Sau đây là bài giải thích của tôi về sự nổi tiếng của Trịnh Công Sơn, đa số dựa trên những gì tôi biết được từ những lần trò chuyện với những người bạn Việt Nam và những họ hàng qua nhiều năm và từ những tài liệu được xuất bản bởi những người Việt Nam xuất hiện từ sau khi ông qua đời. [4] Tôi kết luận rằng có ít nhất bảy lý do giải thích hiện tượng Trịnh Công Sơn: sự mới mẻ trong những bản tình ca ban đầu của ông, việc ông gợi lên những đề tài Phật giáo, hoàn cảnh trình diễn đặc biệt của miền Nam Việt Nam vào những năm chiến tranh, cá tính và con người đặc biệt của Trịnh Công Sơn, việc ông khám phá ra ca sĩ tài năng Khánh Ly, sự xuất hiện của máy cassette, và khả năng thích nghi của Trịnh Công Sơn với hoàn cảnh chính trị mới sau cuộc chiến. Tôi sẽ phát triển những điểm này đầy đủ hơn sau khi nói qua vài điều về tiểu sử của ông trong thời ông còn trẻ.

Những năm tháng đầu đời [5]

Nguyên quán của Trịnh Công Sơn [6] là làng Minh Hương nằm ở ngoại ô thành phố Huế, miền Trung Việt Nam. Minh Hương có nghĩa là “làng của người Minh” gợi cho chúng ta biết về tổ tiên xa xưa của ông: Cha ông thuộc dòng dõi của những người Trung Quốc liên hệ với triều nhà Minh, đến định cư tại Việt Nam vào thế kỷ 17 khi người Mãn Châu lật đổ triều Minh và lập nên nhà Thanh. Trịnh Công Sơn sinh năm 1939, không phải ở Minh Hương nhưng ở tỉnh Đắc Lắc thuộc vùng cao nguyên trung phần, nơi cha ông, một thương gia, đã đem gia đình vào nơi đây để khám phá những cơ hội kinh doanh. Gia đình trở về Huế vào năm 1943 khi những áp lực kinh tế bởi Thế Chiến thứ hai buộc cha ông phải rời vùng cao nguyên.

Trịnh Công Sơn học tiểu học và sau đó theo học tại lycée của Pháp ở Huế. Tai hoạ ập đến gia đình ông khi ông đang học tại lycée. Cha của Trịnh Công Sơn, người mua bán phụ tùng xe đạp và đồng thời làm việc bí mật cho phong trào cách mạng, bị tử nạn khi ông bị tông xe Vespa trên đường trở về nhà từ Quảng Trị. Đây là năm 1955 và Trịnh Công Sơn, lúc đó 16 tuổi, là con trai cả trong 7 người con; mẹ ông đang có mang người con thứ tám. Mặc dù cái chết của người cha là một đòn giáng cả hai mặt tình cảm và kinh tế đối với ông và gia đình, ông vẫn có thể tiếp tục việc học của mình. Năm học 1956-1957, ông theo học tại trường Thiên Hựu, dưới sự quản lý của giáo phận Công giáo Huế. Sau khi thi đậu bằng tú tài một, ông vào Sài Gòn, nơi ông tiếp tục theo học triết tại Lycée Chasseloup-Laubat. Để tránh quân dịch, một số bạn giúp ông vào trường Sư phạm Qui Nhơn. Sau khi ra trường năm 1964, ông dạy ba năm ở một trường vùng hẻo lánh đa số dành cho những người thiểu số ở cao nguyên gần Đà Lạt, nơi ông đã sáng tác một trong số những ca khúc nổi tiếng nhất của ông.

Trịnh Công Sơn yêu âm nhạc từ thuở nhỏ. Ông chơi đàn mandolin và sáo trúc trước khi có được cây đàn guitar đầu tiên lúc ông 12 tuổi. “Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống”, Trịnh Công Sơn đã viết như vậy, nhưng “một phần cũng do một khúc quanh co nào đó của số phận” (2001/1997a, 202). Trong thời gian theo học ở Sài gòn, Trịnh Công Sơn về Huế vào một dịp lễ và đánh võ judo với người em trai. Ông bị chấn thương ở ngực và phải mất 3 năm mới hồi phục. Tai nạn này làm ông không thể thi tiếp tú tài hai nhưng lại cho ông thời gian để ông tập sáng tác. Rõ ràng là lúc đó ông chưa có dự định chọn âm nhạc làm sự nghiệp của mình. Ông giải thích rằng thời gian sau khi cha ông qua đời, mặc dù lúc đó ông không biết điều này, ông thấy hình như mình đang đứng trước ngưỡng cửa của sự nổi tiếng:

“Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 1956-1957, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ.” [7]

Những tình khúc thuở ban đầu

Mặc dù hiện tượng Trịnh Công Sơn chưa thật sự bắt đầu cho đến giữa thập niên 1960 khi những bài hát phản chiến của ông trở nên nổi tiếng, những tình khúc thuở ban đầu đã làm nhiều người chú ý đến người nhạc sĩ trẻ này - những tình khúc như “Ướt mi”, “Biển nhớ”, “Diễm xưa”, [8] và “Tình sầu” [9] Bí ẩn luôn vây quanh những ca khúc của Trịnh Công Sơn, tạo ra những câu hỏi về ai là nguồn cảm hứng của chúng, và điều này lại càng đúng hơn đối với những tình khúc của ông. Mọi người muốn biết người con gái nào đã thổi nguồn cảm hứng vào các bài hát của ông. Những mẩu chuyện được lưu truyền, dần dần trở nên gần như thần thoại, và làm mọi người lại càng để ý hơn đến ca/nhạc sĩ này. Những năm gần đây, Trịnh Công Sơn và những người bạn thân của ông đã phần nào làm sáng tỏ những bí mật về một số bài hát. Ví dụ, Trịnh Công Sơn, đã giải thích rằng bài “Ướt mi”, được viết như một món quà cho ca sĩ Thanh Thuý, người mà Trịnh Công Sơn đã nghe trình bày nhạc phẩm “Giọt mưa thu” [10] , cô vừa trình bày vừa khóc bởi vì mẹ cô đang chết dần chết mòn ở nhà vì căn bệnh lao phổi (2001/1990, 275). Còn “Diễm xưa”, bài hát có lẽ nổi tiếng nhất trong tất cả những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, và là một trong những bài hát được biết đến nhiều nhất trong những bài tình ca đương đại Việt Nam, được lấy cảm hứng từ một người con gái tên Diễm mà Trịnh Công Sơn ngắm từ ban công ngôi nhà ông ở Huế (trong bức hình dưới đây) mỗi khi người con gái này đi qua con đường Nguyễn Trường Tộ ở Huế đến trường Đại học (2001/1990, 275).
Những bản tình ca đầu tay này, ngoài những điều bí ẩn xung quanh nguồn cảm hứng, điều gì làm chúng trở nên rất lôi cuốn? Những người sống cùng thời với Trịnh Công Sơn giải thích rằng chúng lôi cuốn bởi vì chúng đến với thính giả là lớp trẻ ở thành thị miền Nam đang tiếp xúc ngày càng nhiều với những bài hát của Âu châu và Mỹ. Họ thích những bài này vì chúng mới mẻ hơn các bài của các nhạc sĩ Việt Nam khác hồi đó. Các bản nhạc phổ thông hồi đó là những bài được người Việt gọi là những bản nhạc “tiền chiến”, một từ được dùng hơi sai lạc bởi một số lý do. Gọi như vậy là sai lạc vì từ này được dùng không những để chỉ những bài hát được sáng tác trước cuộc chiến chống Pháp mà còn bao gồm luôn những bài hát được viết trong hay sau cuộc chiến này. Nó còn sai lạc hơn nữa bởi vì nó thường được dùng chỉ để nói đến những bài tình ca uỷ mị được sáng tác trong suốt giai đoạn này, chứ không nói đến những bản nhạc hùng. Có lẽ từ “tiền chiến” trở thành phổ biến bởi vì nhiều bài hát được sáng tác trong giai đoạn này giống những bài thơ tiền chiến sáng tác trong những năm 1930 và 1940 (Gibbs 1998a), những bài thơ được viết bởi một nhóm những thi sĩ chịu ảnh hưởng lớn bởi những văn sĩ lãng mạn người Pháp thế kỷ 19 – ví dụ như Alphonse de Larmartine, Afred Vigny, và Alfred de Musset. Nhiều bản nhạc tiền chiến cũng được phổ từ những bài thơ tiền chiến. Cũng nên lưu ý rằng nhạc tiền chiến vẫn còn rất phổ biến trong những năm 1950, khi Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác. Sự thực là bài “Giọt mưa thu”, bài hát mà ca sĩ Thanh Thuý trình bày năm 1958 và đã tạo nguồn cảm hứng để Trịnh Công Sơn sáng tác nhạc phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông, “Ướt mi”, là một bài hát tiền chiến do nhạc sĩ Ðặng Thế Phong sáng tác vào năm 1939. [11]

Trịnh Công Sơn lẽ dĩ nhiên không phải là nhạc sĩ đầu tiên của phong trào mà người Việt Nam gọi là “tân nhạc” hay là “nhạc cải cách”, những cụm từ được sử dụng để diễn tả một loại nhạc mới theo lối Tây phương được các nhạc sĩ Việt Nam sáng tác, xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 1930 (Giibs 1998b). Nhạc tiền chiến thường được xem là “tân nhạc” hay “nhạc cải cách”; chúng tạo ra một phạm trù riêng, chất lãng mạn của chúng tách biệt chúng khỏi những bài tân nhạc khác như những bản nhạc hùng chẳng hạn. Người Việt Nam phân biệt tân nhạc với dân ca, một loại nhạc bao gồm những bài ru con, hò, hát chèo và hát ca trù hay hát ả đào (Phạm Duy 1990, Phong T. Nguyen 1991).

Khi người Pháp giới thiệu nhạc Tây phương, những nhạc sĩ Việt Nam trước hết viết lời Việt cho những ca khúc Pháp. Nhưng đến cuối những năm 1930, họ bắt đầu sáng tác những bản nhạc Việt Nam mới. Ðó là khi những từ như “tân nhạc” và “nhạc cải cách” bắt đầu được sử dụng. Tuy nhiên, vì những nhạc sĩ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam muốn sáng tác những ca khúc Việt Nam, họ đã sáng tác những nhạc phẩm phảng phất giai điệu và nhịp điệu của những bài dân ca. Vì lý do đó, Phạm Duy gọi những ca khúc hiện đại đầu tiên này là những bài dân ca mới (1990, 1). Dân ca và nhạc cải cách thường dựa trên những bài thơ. Dân ca được dựa trên ca dao; một số nhạc cải cách cũng được dựa trên ca dao, nhưng rất nhiều bài khác dựa trên những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng. Vì do thơ mà ra cho nên những bài hát tiền chiến và cải cách [12] đều mang dấu vết của thơ, như thể lục bát truyền thống của người Việt, với những câu sáu và tám chữ đan xen nhau, hay thể thất ngôn Đường luật rất phổ biến ở Việt Nam cũng như Trung Quốc.

Mặc dù không chính thức bị cấm, những bản nhạc tiền chiến rất ít khi được nghe ở miền Bắc. Vì quá chú trọng đến việc vận động quần chúng trước tiên đánh Pháp và sau đó đánh Mỹ và đồng minh, các nhà lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không muốn dân chúng nghe những bài nhạc uỷ mị và lãng mạn. Tuy nhiên, nhạc tiền chiến rất thường được nghe ở miền Nam: Đó là những bài hát đã tạo nên cơ sở để những sáng tác của Trịnh Công Sơn trở nên nổi bật. “Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ”, Đặng Tiến nói, “Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách thành hình chỉ hai mươi năm về trước” (2001a, 12-13).

Vậy Trịnh Công Sơn đã làm gì để những bài hát của ông mang vẻ mới mẻ? Văn Ngọc cho rằng Trịnh Công Sơn có một cách viết lời nhạc mới mà không bị giới hạn bởi việc phải kể một câu chuyện từ đầu đến cuối. “Chúng có một đời sống hoàn toàn độc lập, tự do. Chúng có thể gợi lên những hình ảnh đẹp, những ấn tượng đẹp, những ý ngắn, đôi khi đạt tới mức siêu thực, và giữa chúng đôi khi không có một mối quan hệ lô gích nào cả” (2001, 27). Trịnh Công Sơn sáng tạo những bài hát của ông bằng cách đi thẳng vào con tim thay vì đi vòng qua trí óc. Để đạt được tầm ảnh hưởng này, ông dùng những phương pháp giống như nhiều thi sĩ hiện đại, đó là lý do vì sao ông thường được gọi là một thi sĩ, chứ không phải chỉ là một người viết nhạc. [13] Những phương pháp này bao gồm: (1) sự thiếu mạch lạc có chủ đích; (2) cách dùng cú pháp rất khác thường để vươn đến ngưỡng giới hạn có thể chấp nhận được; (3) ca từ, hình ảnh và phép ẩn dụ mới lạ; (4) cách đặt các chữ nằm gần nhau một cách phá lề luật; (5) và cách dùng vần – cả vần thuận và vần nghịch. Tất cả những phương pháp này được minh chứng trong bài “Diễm xưa” (xem Phụ lục II).

Mặc dù cốt chuyện trong bài hát khá rõ ràng – người ca sĩ đang đứng trong mưa chờ người mình yêu đến thăm – bài hát không có giọng văn tường thuật mạch lạc. “'Xin hãy cho mưa qua vùng đất rộng' thì có liên quan gì tới vụ 'người phiêu lãng quên mình lãng du'?” Lê Hữu đặt câu hỏi. “Nghe như ông nói gà bà nói vịt, hoặc lấy câu trong bài hát này bỏ vào bài hát kia vậy” (2001, 227).

Phương pháp thứ hai, cách Trịnh Công Sơn sử dụng cú pháp lạ lùng được thấy trong câu thứ hai: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao”. Khi dịch câu này, chúng tôi đã bỏ không dịch hai chữ “mấy thuở” vì hai chữ này có vẻ không liên quan đến phần còn lại của câu.

Mặc dù trong “Diễm xưa” cũng có mưa, cũng có mùa thu và lá rơi [14] như những bài ca tiền chiến, nhưng bài này cũng chứa đựng nhiều từ và hình ảnh rất mới lạ. Việc nhắc đến những tầng tháp cổ, bia mộ, và đá cũng cần đến nhau không phải là điều thường thấy trong những bản nhạc tiền chiến. Có lẽ câu nổi tiếng nhất của bài hát này, “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”, trở nên nổi tiếng bởi vì nó chứa đựng một hình ảnh mới và lôi cuốn.

Phương pháp thứ tư, Trịnh Công Sơn sử dụng cách sắp xếp những từ cạnh nhau rất lạ lùng. Trong “Diễm xưa” có một sự sắp xếp lạ lùng trong câu thứ hai của đoạn thứ hai, “buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”. Trịnh Công Sơn sử dụng cụm từ “chuyến mưa qua” để diễn tả cơn mưa, một cách sử dụng lạ lùng chữ “chuyến”, một từ thường được dùng trong những cụm từ như “chuyến máy bay”, “chuyến xe”, “chuyến tàu” v.v…, nhưng không để diễn tả một cơn mưa (Lê Hữu 2001, 227). Một số ví dụ rõ hơn nằm trong đoạn thứ hai của một bản tình ca thuở ban đầu, bài “Tình sầu” của Trịnh Công Sơn:

Tình yêu như vết cháy
trên da thịt người.
Tình xa như trời,
tình gần như khói mây,
tình trầm như bóng cây,
tình reo vui như nắng,
tình buồn làm cơn say

Đoạn thứ hai này bắt đầu với những so sánh nổi bật giữa tình yêu và một vết thương, bằng chứng rằng cuộc chiến đang bắt đầu ám ảnh người nhạc sĩ. Rồi sau đó là sương mù, mây, bầu trời, và mặt trời, toàn là những hình ảnh thường dùng, nhưng Trịnh Công Sơn dùng chúng để đối nghịch hơn là thỏa mãn điều mà chúng ta mong đợi, như Đặng Tiến giải thích: “'Tình xa như trời' thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như 'khói mây'?... 'Tình reo vui trong nắng' thì phải đối ngẫu với 'tình buồn cơn mưa bay' mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây?” (2001a, 11).

Đặng Tiến so sánh bài “Tình sầu” với bài “Gửi gió cho mây ngàn bay” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh, một bản nhạc tiền chiến được sáng tác năm 1952 hay 1953 nhưng vẫn còn phổ biến ở Việt Nam trong những năm 1960 và 1970 (Tôi đã nghe bài này rất nhiều lần trong những tiệm café ở Huế và Đà Nẵng trong suốt thời chiến). Nó bắt đầu như sau:

Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian

Theo Đặng Tiến, những dòng này mang những hình ảnh và bố cục thường thấy: gió-mây, bướm-hoa, ánh trăng-mùa thu, không mang những đối nghịch mới mẻ như trong các bài của Trịnh Công Sơn.

Một phương pháp thi ca sau cùng là vần – cả vần thuận và vần nghịch – được Trịnh Công Sơn sử dụng một cách khéo léo để làm cho những dòng nhạc ăn khớp với nhau. Những nhạc sĩ sáng tác khác cũng sử dụng vần, nhưng đối với Trịnh Công Sơn công cụ này đặc biệt quan trọng. Trần Hữu Thục nói rằng khi ta hát một số bài hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn, ta “hát vần”, chứ không “hát lên ý” [của bài ca] (2001, 56). Tôi đặt bài “Diễm xưa” trong mục này. Mặc dù những mảng hình ảnh trong bài ca có vẻ đối chọi nhau, nhưng vì các vần ăn khớp với nhau nên bài hát trở thành hòa hợp và êm dịu. Vì trong tiếng Việt phát âm và đánh vần khá thuần nhất nên ta có thể thấy vần được dùng như thế nào bằng cách xem cách đánh vần của những chữ ở cuối mỗi câu.

Để giải thích cái gì đã tạo môi trường cho Trịnh Công Sơn có một lối sáng tác lời ca mới này, Đặng Tiến đã nêu ra cho chúng ta thấy môi trường trí thức sôi động và cởi mở bao trùm các đô thị miền Nam Việt Nam giữa hai cuộc chiến Đông Dương (2001a, 13). Đặng Tiến nói rằng, "Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Hussserl, Heiddegger” (14). Ở Huế, Trịnh Công Sơn chơi với những bạn bè có học thức cao như hoạ sĩ Đinh Cường và Bửu Chỉ, triết gia và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà thơ Ngô Kha (cũng có bằng cử nhân luật), và giáo sư Pháp văn và dịch giả Bửu Ý, chủ nhiệm Khoa Pháp văn trường Sư phạm Huế (Đinh Cường 2001, 58). Trịnh Công Sơn rõ ràng được tiếp xúc với chủ nghĩa hiện đại (modernism) qua việc ông tự học triết và qua những lần thảo luận với những người bạn thân. Khi ông dùng những từ mà ta không ngờ đến, hoặc khi ông không dùng những từ dễ hiểu, khi ông chọn tính mạch lạc trong cảm xúc thay vì sự mạch lạc trong logic, rõ ràng ông đã bị tác động bởi cùng một số ảnh hưởng giống như Apollinaire [15] ở Pháp và T.S. Eliot, James Joyce, Gertrude Stein, và Ezra Pound ở Anh và Mỹ.

Một thành viên trong vòng bạn bè của Trịnh Công Sơn, Thái Kim Lan, người trong những năm đầu của thập niên 1960 đã theo học triết tại Đại học Huế, nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của triết học Tây phương, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh, đến giới trẻ của Huế trong thời gian này. Những quan niệm như “cảm giác lo lắng về sự tồn tại” (existential angst) “sự tồn tại và tính hư vô” (being and nothingness), “sự vô nghĩa của đời sống” (the meaningless of life) và huyền thoại về Sisyphus là, như bà nói, luôn được tranh luận sôi nổi (2001, 84). Mặc dù Trịnh Công Sơn đã học triết học theo chương trình tú tài hai của Pháp, theo như Thái Kim Lan, ông thường ngồi im lặng lắng nghe trong suốt những cuộc thảo luận này, nhưng sau đó, trước sự ngạc nhiên của những bạn bè của ông, ông sáng tác bài hát và “hát triết”. Những bài hát của ông, Thái Kim Lan tranh luận, là những phiên bản đơn giản của những tư tưởng mà họ đã từng thảo luận, và chúng giúp những người trong vòng bạn bè của bà thoát ra khỏi những khúc mắc lý trí mà họ đã từng buộc chính họ vào. Thái Kim Lan cho rằng khi ông viết bài hát có tên gọi “Ngẫu nhiên”, trong đó có câu “không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên, và có đâu em này, không có cái chết sau cùng”, ông đã bắt đầu suy nghĩ về một vấn đề triết học về việc định nghĩa “đầu tiên” và “cuối cùng”. Trong “Lời của dòng sông”, thì ông đang suy nghĩ về những vấn đề về “sự tồn tại” và “sự hư vô”. Theo Thái Kim Lan, Trịnh Công Sơn đã thu nhập những ý niệm triết học mới này vào những bài hát của ông, làm cho nhạc của ông khác biệt so với những nhạc sĩ sáng tác trước đó và khiến chúng lôi cuốn những người trẻ. (83)

Bài “Dã tràng ca” của Trịnh Công Sơn mới được khám phá gần đây cung cấp những ví dụ để thấy triết học Pháp đã ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của Trịnh Công Sơn ra sao. Trong bài trường ca này, rõ ràng được gợi hứng từ cuốn Huyền thoại Sisyphus của Camus, Trịnh Công Sơn dùng hình tượng con dã tràng, một hình ảnh Việt Nam nói về sự phí công vô ích, để diễn tả cái nhìn đen tối về cuộc đời giống như Camus. Nhưng bài này có khác bài của Camus ở chỗ nó kết thúc với cứu rỗi của tình yêu. Được những bạn bè thời sinh viên của Trịnh Công Sơn tại trường Sư phạm Qui Nhơn trình bày dưới dạng đồng ca vào năm 1962, bài hát được mọi người đón nhận vào thời điểm đó nhưng không bao giờ được xuất bản hay thu âm cho đến khi sử gia người Huế Nguyễn Đắc Xuân phỏng vấn những sinh viên còn nhớ về việc này (Nguyễn Đắc Xuân 2003, 32-33; 39-51; xem thêm Nguyễn Thanh Ty 2004, 15-18). Ca từ triết học trong bài “Dã tràng ca” và trong những sáng tác khác tạo nét mới mẻ cho những bài hát của Trịnh Công Sơn, nhưng ông cũng rất thận trọng để bảo đảm rằng những tư tưởng này không quá lạ lẫm hay xa lạ. “Tôi vốn thích triết học”, Trịnh Công Sơn đã viết như vậy "và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình”. Nhưng sau đó ông nói rõ rằng những gì ông hướng đến là “một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ” (2001/1997a, 202). [16]

Nhưng không chỉ ca từ trong những bài bài hát của Trịnh Công Sơn đã làm chúng tươi mới và lôi cuốn: những bài hát của ông nghe hiện đại (modern-sounding) hơn những bài hát sáng tác bởi những nhạc sĩ thời tiền chiến như Đoàn Chuẩn và những sáng tác ban đầu của Văn Cao và Phạm Duy, những người cùng thời với Trịnh Công Sơn nhưng lớn tuổi hơn. Vậy điều gì làm những bài hát của Trịnh Công Sơn nghe hiện đại hơn? Trịnh Công Sơn đạt vẻ hiện đại hơn vì ông không bắt chước những luật thơ thông thường như lục bát hay thất ngôn. Tránh khỏi những sự bắt chước này không dễ, bởi rất nhiều những bản nhạc tiền chiến mang dấu vết của những chuẩn mực thơ ca quen thuộc. Đặng Tiến lập luận rằng những lời ca từ bài “Gửi gió cho mây ngàn bay” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh viết theo thể thất ngôn Đường luật rất phổ biến ở Việt Nam cũng như Trung Quốc:

Lá vàng từng cánh rơi từng cánh (bảy chữ)
Rơi xuống âm thầm trên đất xưa (bảy chữ)

Giải thích rằng những bài hát của Trịnh Công Sơn khác với những nhạc sĩ trước đó ra sao, Văn Ngọc cho rằng “Khi hát những bài như: 'Buồn tàn thu' của Văn Cao (1940), hay 'Chinh phụ ca' (1945) của Phạm Duy, [17] người ta không thể không ngâm nga, nhâm nhi, từng câu, từng chữ một, như hát ca trù. [18] Văng vắng bên ta, tưởng như còn nghe thấy cả tiếng đàn kìm, đàn đáy, hay tiếng trống, tiếng phách nữa!” [19] (2001, 27) Ngược lại, những bài hát của Trịnh Công Sơn hiếm khi gợi đến dạng những khổ thơ phổ biến này. Một lý do có thể là vì Trịnh Công Sơn học chương trình tú tài hai của Pháp trong khi những người bạn của ông theo học tại những trường Việt Nam, vì vậy ông không bị buộc phải học thuộc lòng những bài thơ được viết theo thể thơ truyền thống của Việt Nam và của Hán Việt cổ (Đặng Tiến 2001a, 11; Nguyễn Thanh Ty 2004, 101).

(Xem tiếp phần 2 sau chú thích của phần 1)

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

[1]Được Phong T. Nguyen trích dẫn trong phần “Giới thiệu” của cuốn New Perspectives on Vietnamese Music (1991, vi). Nguyễn Trãi là một thi sĩ và là một nhà cố vấn quân sự cho Lê Lợi, người đã đánh bại quân Trung Quốc vào năm 1427 và [Lê Lợi] xưng vương vào năm 1428.
[2]Những thuật ngữ có thể khó hiểu khi nói về những vùng của Việt Nam. Sự phân chia tạm thời tại vĩ tuyến 17 từ năm 1954 đến năm 1975 thành Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Việt Nam Cộng hoà phân đôi miền trung. “Nam Việt Nam” hay Việt Nam Cộng hoà vì vậy bao gồm những người Việt từ miền trung và miền Nam Việt Nam (và cả những người bắc di cư). Người Việt Nam thường nói đến khu vực nam của vĩ tuyến 17 là Miền Nam. Tôi sẽ gọi vùng đất này là Nam Việt Nam, hay là miền Nam, và với miền nam của Nam Việt Nam (Nam Bộ) là nam Việt Nam. Tương tự, “người miền Nam” là nói đến những người sống phía nam của vĩ tuyến 17, “người nam” là những người sống ở Nam Bộ.
[3]Xem phần “Máy cassette” của tôi về phần thảo luận rằng cụm từ “ca sĩ nổi tiếng” (popular singer) của tiếng Anh đúng với trường hợp của Trịnh Công Sơn ra sao.
[4]Đa số sách về Trịnh Công Sơn xuất bản sau khi ông qua đời bao gồm những bài viết mới cũng như những tái bản của những bài viết được xuất bản trước đó. Sau cùng, trong những phần trích dẫn – ngày tháng trong bài viết này, tôi trước tiên đưa ra ngày tháng của những tuyển tập mà các bài viết được in lại, rồi mới đến ngày mà chúng được xuất bản lần đầu tiên.
[5]Về những tài liệu về thời trẻ tuổi của Trịnh Công Sơn, tôi dựa vào Đặng Tiến 2001a, Hoàng Phủ Ngọc Tường 2001/1995, Nguyễn Đắc Xuân 2001, Nguyễn Thanh Ty 2001 và 2004, Nhật Lệ 2001/1999, Trịnh Cung 2001, và Sâm Thương 2001.
[6]Tôi đôi khi sẽ nhắc đến Trịnh Công Sơn là Sơn, tên của ông, để tránh việc lặp lại hoàn toàn tên đầy đủ của ông. Đối với người Việt, việc sử dụng họ để gọi một người không thường được dùng. (Trong bài dịch này, người dịch sử dụng tên đầy đủ của Trịnh Công Sơn, thay vì chỉ gọi Sơn như tác giả đã chú thích – ND)
[7]Đặng Tiến trích dẫn 2001a, 10. Nguyên gốc là Trịnh Công Sơn – Nhạc và đời (Hậu Giang: Tổng hợp).
[8]Xem phần Chú thích II, bài “Diễm Xưa”, “Đại bác ru đêm” và “Một cõi đi về”. Các bản dịch [sang tiếng Anh] của 14 bài nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, xem Do Vinh Tai và Scigliano 1997.
[9]Trong phần Chú thích I, tôi đưa ra tất cả các tựa đề tiếng Việt của tất cả những bài hát tôi nói đến [trong bài viết này].
[10]“Giọt mưa thu” là một bản nhạc tiền chiến. Xem giải thích trong đoạn văn kế tiếp.
[11]Để tìm hiểu bài hát này và ảnh hưởng của người sáng tác ra nó, xem Phạm Duy 1994, 80-87; bản dịch sang tiếng Anh, xem Gibbs 2003a.
[12]Sự khác biệt giữa “âm nhạc cải cách” và “nhạc tiền chiến” không thật sự rõ ràng. Như Gibbs giải thích, “Trong những năm gần đây những bài hát này [nhạc cải cách] được gọi là nhạc tiền chiến” (2001a). Tuy nhiên, như tôi nói, đa số mọi người coi những bản nhạc tiền chiến là phạm trù lãng mạn của nhạc cải cách.
[13]Ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn chứng tỏ rằng ông không “chỉ là” nhạc sĩ sáng tác, nhưng theo truyền thống ở Việt Nam, thi sĩ là những người được [xã hội] coi trọng hơn những người theo nghề xướng ca.
[14]Những nhạc sĩ Việt Nam thường khó cưỡng lại hình ảnh lá rơi [trong những bài hát của mình]. Theo Nguyễn Trọng Tạo, 50 trong số 100 bài tân nhạc được yêu chuộng nhất (top 100) dựa trên một cụm từ được lặp đi lặp lại là ‘lá rơi’ (2002, 13).
[15]Trịnh Công Sơn đã nói với Tuấn Huy rằng “Những ngày còn đi học, moa chỉ cầm tập thơ của Apollinaire lâm râm đọc từng lời thơ trác tuyệt và nhìn mơ màng ra những dải mây trắng bay ngoài cửa sổ” (trích dẫn trong Tuấn Huy 2001, 31).
[16]Để biết thêm thông tin về “triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn, và cả những ảnh hưởng của Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh, xem Schafer (2007). Xem bản dịch tiếng Việt trên talawas (ND).
[17]Chính Phạm Duy tìm âm hưởng của thơ Đường trong những sáng tác đầu tiên của Văn Cao và trong những sáng tác đầu tiên của chính ông (1993, 13).
[18]Ca trù, còn được gọi là hát ả đào, là thú tiêu khiển của những người đàn ông có học; họ đến những nhà hát ả đào để nghe hát những bài thơ cổ và những bài thơ do chính họ sáng tác.
[19]Đây là những nhạc cụ truyền thống được sử dụng khi hát ca trù.
-----------------------------------
Phần 2

Vy Huyền và Hoài Phi dịch
Chủ đề Phật giáo

So sánh những sáng tác của những nhạc sĩ trước đó, những bài hát của Trịnh Công Sơn mới mẻ nhưng chúng không quá lạ lùng đến mức xa lạ. Tâm tình của nhạc Trịnh Công Sơn vẫn theo lối buồn, mơ hồ và lãng mạn, và vì vậy những bài hát của ông hoà vào những kỳ vọng của người Việt được hình thành từ những bài ru con buồn và những bản nhạc tiền chiến (Văn Ngọc 2001, 27). Những tâm tình buồn bã và những thông điệp trong nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn có lẽ phản ánh những ảnh hưởng từ nền tảng Phật giáo ở ông. Trịnh Công Sơn thừa nhận đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin của ông và bởi thành phố Huế, quê nhà ông, một thành phố Phật giáo có rất nhiều ngôi chùa bao quanh: “Huế và Đạo Phật,” ông viết, “ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi”. [1] Mặc dù bạn ông, Thái Kim Lan, nói rằng Trịnh Công Sơn lồng những vấn đề trừu tượng của triết học Tây phương vào những bài hát của ông, nhưng cuối cùng chính bà cũng thú nhận rằng những tư tưởng này chẳng qua là những tư tưởng Phật giáo. “Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có chi là mới so với triết lý Phật giáo cả” 84). [2] Khi một người phỏng vấn cho rằng có một “dòng hiện sinh âm ỉ, nồng nàn” trong những bài hát của ông, Trịnh Công Sơn đáp rằng: “Bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc sống” (2001/1998, 211). Trịnh Công Sơn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi triết học Tây phương và tư tưởng Phật giáo. Như ông đã từng nói, ông hướng đến một triết học đơn giản, một triết học “không được hệ thống hoá” (2001/1997a, 202).

Tư tưởng Phật giáo được diễn tả trong nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là khái niệm vô thường, hay sự tạm bợ, tư tưởng rằng cái chết là một sự kiện trong vòng luân hồi dẫn đến tái sinh, và nhận thức rằng, như Phật dạy, “Đời là khổ đau”. Sự tạm bợ là đề tài của nhiều bài hát của ông. Trong thế giới của Trịnh Công Sơn không có điều gì vĩnh cửu – tuổi trẻ, tình yêu, cuộc đời, tất cả đều là tạm bợ. Chúng ta thấy đề tài này trong bài “Đoá hoa vô thường”, một bài hát dài không giống các bài hát khác, trong đó Trịnh Công Sơn phác hoạ ba giai đoạn của một cuộc tình – sự tìm kiếm một người, sự khám phá của tình yêu, và rồi một kết cuộc không thể tránh được. Nó cũng xuất hiện trong bài “Ở trọ” mà trong đó mọi sinh vật, kể cả người nhạc sĩ, được miêu tả là đang sống tạm bợ ở chốn này, như một người ở trọ:

Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn

Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời

Lẽ dĩ nhiên có cái buồn trong những gì tạm bợ, nhưng cũng có sự bình an trong tâm hồn nếu ta nhận được rằng cuối cùng của một cuộc tình hay một cuộc đời cũng là một sự bắt đầu; ra đi cũng chính là trở về. Trong những bài hát của Trịnh Công Sơn, ra đi dẫn đến trở lại và ngược lại, và hình ảnh vòng tròn thường được thấy trong lời ca. Ví dụ, “Biển nhớ”, bắt đầu bằng “Ngày mai em đi / Biển nhớ tên em gọi về”. Một bài sau đó, “Một cõi đi về”, [3] như tựa đề cho thấy, tràn ngập bởi ý tưởng rằng đến và đi cũng không khác nhau lắm. Mặc dù bài này thường được coi là bài hát nói về sự chết – nó được hát gần như trong tất cả những chương trình ca nhạc tưởng nhớ Trịnh Công Sơn và một người thổi saxophone đã chơi bài này khi đưa quan tài ông ra huyệt – nhưng trong bài hát này, cái buồn vì chia ly và cái chết được an ủi vì chia ly nối kết với hội ngộ và cái chết thì được nối kết với tái sanh (Cao Huy Thuần (2001a)).

Một số người Việt và một số người Tây phương khi nghe những bài hát của Trịnh Công Sơn và đọc ca từ của ông, thấy rằng những bài hát ấy quá ủy mị, có thể nói là bệnh hoạn (morbid) nữa. Đó là một phản ứng có thể hiểu được: đa số những bài hát của ông buồn; rất nhiều bài nói về cái chết. Trịnh Công Sơn thú nhận rằng cái chết ám ảnh ông từ thuở nhỏ, có lẽ vì cái chết sớm của cha ông (2001/1998, 207). [4] Và lẽ dĩ nhiên chiến tranh không khỏi không làm tăng ý thức về cái chết của mọi người Việt Nam. “Tôi có người yêu vừa chết đêm qua”, Trịnh Công Sơn hát trong “Tình ca người mất trí”: “Chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò / Không hận thù nằm chết như mơ”. Trịnh Công Sơn không chỉ lo lắng về cái chết của những người khác: cái chết của chính ông không bao giờ xa vời trong tâm trí ông. Ông nhắc đến nó trực tiếp trong một số bài hát, ví dụ, trong “Bên đời hiu quạnh”: “Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời, / Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy, / Giật mình tỉnh ra ô nắng lên rồi”; và trong bài “Ngẫu nhiên”: “Mệt quá thân ta này nằm xuống với đất muôn đời”. Trong những bài khác, ông nhắc đến một cách gián tiếp hơn sự ra đi của chính ông khỏi thế giới này – ví dụ, trong bài “Cát bụi”, “Có một ngày như thế”, và “Như một lời chia tay”. Trong những bài hát của Trịnh Công Sơn, cái chết và sự sống hoà quyện vào nhau, và chúng bổ sung cho nhau. Ca từ trong nhiều bài hát của ông cho thấy ông đã sống cuộc đời của mình với sự chết luôn ở trong tâm hồn.

Khi chấp nhận sự chết như “một khái niệm dự kiến” (anticipatory conception) ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người trên trái đất (Kierkegaard 1944, 150) Trịnh Công Sơn đã tuân theo lời chỉ dạy của các triết gia hiện sinh. Trong những năm cuối 1950 và đầu 1960, những trí thức trẻ ở các thành thị miền Nam bị mê hoặc bởi chủ nghĩa hiện sinh châu Âu và những người bạn thân của Trịnh Công Sơn nhấn mạnh sự quan tâm đầy nhiệt huyết của ông đối với chủ đề này. [5] Và có lẽ cũng vì vậy mà Trịnh Công Sơn, cũng như Heidegger và Karl Jaspers, hiển nhiên chấp nhận rằng cái chết đem lại ý nghĩa cho đời sống. “Tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng”, Trịnh Công Sơn viết như vậy trong lời giới thiệu một tập nhạc của ông (1972, 6). Nỗi tuyệt vọng xuyên thấu nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn được xem như nỗi sợ hãi về sự tồn tại (existential dread)– nỗi lo lắng khi đối diện với hư không. Mâu thuẫn thay, nỗi sợ hãi này lại đưa đến điều mà Heidegger gọi là sự tồn tại đích thực, như René Muller giải thích:

“Trong triết học Heidegger, hư không (das Nichts), trực giác về những gì gọi là không tồn tại, là căn bản của sự tồn tại thực sự. Với Heidegger, chỉ khi tôi nhận ra và chấp nhận rằng tôi sẽ mất tất cả những gì tôi biết thuộc về tôi – hay nói cho chính xác hơn nữa là tôi đang mất tất cả những cái đó ngay tại giây phút này – chỉ khi ý thức được như vậy tôi mới nắm vững được cuộc đời của tôi. Chỉ khi tôi tự do đối mặt với cái chết của tôi, tôi mới có tự do để sống trọn vẹn cuộc đời mình. Khi tôi có thể buông lỏng thế gian thì tôi mới có thể đón nhận thế gian. Khi tôi cảm nhận được sự Không…, thì cái nền của sự Có sẽ hiện ra dưới chân tôi.” (1998, 32-33)

Mặc dù Heidgger không phải là một Phật tử, Muller cho rằng ý niệm này của Heidegger đáng được xếp vào các nghịch lý của Thiền. Chân, ý nghĩa đích thực của thế gian, hay đơn giản hơn, sự thật về những gì chúng ta bắt gặp, chỉ đến sau khi chúng ta đạt đến tính không (33). Việc đánh giá cao những khoảnh khắc của cuộc sống của những người theo thuyết hiện sinh tương tự như tư tưởng vô thường của Phật. Có rất nhiều tương đồng giữa Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh, như nhiều học giả đã viết. [6] Trong những bài hát của ông, Trịnh Công Sơn đã hoà lẫn tư tưởng Phật giáo và hiện sinh để tạo ra một tổng quan nghệ thuật mà thính giả của ông thấy rất mới mẻ và lạ lùng nhưng lại không quá xa lạ. Bằng việc kết hợp chủ đề Phật giáo vào trong những bài hát của mình, Trịnh Công Sơn giúp những người nghe nhạc ông, và đa số họ là Phật tử, chấp nhận cái chết và khổ đau. Họ đã thấy – và còn sẽ thấy – những bài hát của ông không u ám mà trái lại rất an ủi.

Trịnh Công Sơn và cuộc chiến

Những bài hát trong tập nhạc đầu tiên của Trịnh Công Sơn, Tình khúc Trịnh Công Sơn, phát hành năm 1965, là những bài tình ca, nhưng chúng ta cũng đã thấy được hình ảnh lấp ló của chiến tranh. Bài “Tình sầu”, bài hát cuối cùng trong tuyển tập này, mở đầu với câu “Tình yêu như trái phá, con tim mù loà”. Trong tuyển tập kế tiếp của mình, Ca khúc Da vàng (1966/1967), chiến tranh đã trở thành chủ đề chính. Chính những bài hát này đã tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, những bài hát như “Đại bác ru đêm”, [7] “Người con gái Việt Nam da vàng”, “Ngụ ngôn của mùa đông”, và “Gia tài của mẹ”. Những bài hát này là những bài hát phản chiến vì chúng phản ánh những đau buồn về cái chết và những tàn phát mà chiến tranh gây nên. Ngoài ra, chúng cũng là những bài tình ca kêu gọi người nghe hãy trân trọng tình yêu giữa những người yêu nhau, giữa những người mẹ và những đứa con, và giữa những con người da vàng. Trong những bài hát này, dùng cụm từ có vẻ sáo rỗng trong tiếng Anh, Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người “Make love not war” (nên thương nhau, không nên gây chiến tranh). [8]

Nhưng hiện tượng Trịnh Công Sơn không phải chỉ được nhen lên từ những bài hát, mà còn từ những buổi trình diễn công cộng nữa. Một sự kiện tạo nên bước ngoặt chính là buổi trình diễn tại Đại học Văn khoa Sài Gòn vào năm 1965. Được một số bạn của Trịnh Công Sơn tổ chức, và với sự tham dự của các nghệ sĩ, trí thức và sinh viên học sinh, buổi trình diễn này được tổ chức ngoài trời sau khuôn viên trường Đại học. Đây là buổi trình diễn đầu tiên của Trịnh Công Sơn trước một đám đông. Ông nói rằng ông nhìn lại buổi trình diễn này “là buổi thể nghiệm xem mình có thể tồn tại trong lòng quần chúng được không” (2001/1997c, 278). Và ông đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt, điều mà sau này ông mô tả như sau:

“Với một hành trang nhẹ nhàng bằng hai mươi ca khúc nói về quê hương, ước mơ hòa bình và những bài sau này được gọi là “phản chiến”, tôi đã cố gắng hết sức để một mình đảm nhận vai trò đưa nỗi lòng của mình đến với quần chúng. Buổi hát đã để lại một ấn tượng khá tốt đẹp cho cả người trình bày lẫn người nghe. Trong buổi diễn có một bài hát được yêu cầu hát đến lần thứ tám và cuối cùng mọi người tự động hát theo. Sau buổi diễn tôi đã được “bồi dưỡng” bằng một tiếng đồng hồ ngồi ký tên trên những trang giấy của tập bài hát quay roneo dành cho người nghe.” (278)

Trịnh Công Sơn đã lấy những đợt nghỉ không phép ngắn hạn khi còn dạy học tại Bảo Lộc để trình diễn tại đây và những buổi văn nghệ khác tại Sài Gòn. Một vị giáo viên già trong trường phải dạy thế cho ông và ông Hiệu trưởng không mấy hài lòng về việc bỏ trường đi hát của Trịnh Công Sơn. (Nguyễn Thanh Ty 2004, 41, 96). Mùa hè năm 1967, sự nghiệp dạy học của Trịnh Công Sơn chấm dứt khi ông và một số bạn cùng là những giáo viên tại Bảo Lộc nhận giấy gọi động viên. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn chưa bao giờ ra trình diện và chưa bao giờ phục vụ trong quân đội. Ông dọn vào Sài Gòn và bắt đầu sống cuộc sống phóng túng. Thời gian gần hai năm sau ngày nhận giấy tuyển quân, Trịnh Công Sơn sống một cuộc sống tương đối bình thường. Ông được miễn dịch vì ông nhịn ăn một tháng và uống một loại thuốc xổ mạnh có tên gọi là diamox để giảm cân trước khi vào khám sức khoẻ. Nhưng khi sắp đến năm thứ ba, ông e ngại rằng sức khoẻ của ông không đủ để ăn chay và ông uống thuốc xổ thêm lần nữa, và vì vậy ông trở thành một người trốn lính. Trong nhiều năm, ông sống như một kẻ vô gia cư trong những khu nhà đổ nát, hoang tàn phía sau Văn khoa. Mặc dù thiếu tiện nghi, khu vực này có lợi thế là cảnh sát thường không kiểm tra. Ông thường ngủ trên võng hay trên nền xi măng, nơi gặp gỡ của những nghệ sĩ trẻ sống gần đó. Về phần vệ sinh cá nhân, ông rửa mặt và đánh răng ở một trong những quán café gần đó. [9]

Khi những bài hát của ông ngày càng trở nên phổ biến và, sau cuộc Tấn công Tết Mậu Thân 1968, các bài hát của ông lại càng tăng thêm phần phản chiến, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sắc lệnh cấm lưu hành những bài hát này. [10] Việc này mang lại sự chú ý hơn từ những phóng viên trong nước và ngoài nước về Trịnh Công Sơn. “Tôi bỗng trở nên một người nổi tiếng bất đắc dĩ”, Trịnh Công Sơn đã viết. “Từ Sài Gòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa… Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ống kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố [Sài Gòn] hoàn toàn được giải phóng” (2003/1987a, 181-82). Nếu những người phóng viên nước ngoài có thể tìm Trịnh Công Sơn, tại sao cảnh sát lại không tìm thấy ông? Điều này vẫn là một câu hỏi mờ ám và gây nhiều tranh luận. Một số người nói rằng ông được một sĩ quan không quân tên là Lưu Kim Cương, một người bạn thân của Trịnh Công Sơn, bảo bọc. Lưu Kim Cương có thể đã cấp cho ông một số giấy tờ tòng quân giả (Nguyễn Thanh Ty 2004, 115). Một số khác nói rằng Lưu Kim Cương không đủ quyền để giúp Trịnh Công Sơn và nói rằng người bảo bọc ông chính là Nguyễn Cao Kỳ, người giữ chức Thủ tướng từ 1965 đến 1967 và Phó tổng thống đến năm 1971. Đặng Tiến, trích dẫn một số nguồn, nói rằng Nguyễn Cao Kỳ kết bạn với Trịnh Công Sơn bởi vì ông thích chơi với nghệ sĩ, và cũng vì ông thiết tha với sự ủng hộ của trí thức cấp tiến để chuộc lại quan hệ không tốt đẹp với phong trào Phật giáo ở Huế mà ông là người đã giúp tay đàn áp vào năm 1966 (2001b, 187).

Một người không thể hiểu được hiện tượng Trịnh Công Sơn nếu không ý thức được hoàn cảnh xã hội của đô thị miền nam Việt Nam hồi đó như thế nào. Khi Trịnh Công Sơn lên sân khấu tại Đại học Sài Gòn vào năm 1965, ông đang trình diễn trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết bao thanh niên bị động viên và chết trên chiến trường, hoả tiễn Liên Xô pháo kích hàng đêm và lính Mỹ tràn ngập khắp nơi. Những sự kiện này như một mớ bùi nhùi, và Trịnh Công Sơn là người nhóm lên tia lửa. Văn Ngọc nhấn mạnh mối quan hệ này giữa những bài hát của Trịnh Công Sơn và tình trạng khẩn cấp gây ra bởi chiến tranh:

Hiện tượng Trịnh Công Sơn, hay đúng hơn, những ca khúc của Trịnh Công Sơn, chỉ có thể giải thích được bởi những nguyên nhân lịch sử và xã hội: không có cái thực tế đau xót của chiến tranh và hận thù, không có cái không khí hoang mang bao trùm lên cả một giới trẻ thành thị, không có một sự đồng tình, đồng cảm nào đó giữa người hát và người nghe, thì không thể nào có được những bài hát ấy.” (2001, 26)

Lẽ dĩ nhiên, cần phải biết cách để nắm lấy khoảnh khắc nhạy cảm này, và Trịnh Công Sơn, vì đã mang những bài hát của mình thoát ra khỏi những sáo rỗng của những bản nhạc lãng mạn tiền chiến, cho nên ông có đủ nhạy cảm và tài năng để biết rằng hoàn cảnh mới này đòi hỏi gì. Nó đòi hỏi một thể loại tình ca mới, một bài ca về vùng đất và con người chịu đựng khổ đau của dân Việt Nam, một bài hát như bài “Đại bác ru đêm” [11]

Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.
Hàng vạn chuyến xe, claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
từng vùng thịt xương có mẹ có em

Như những dòng trên bộc lộ, nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn khác hẳn với những bài hát trước đó của ông không chỉ về chủ đề mà còn về kỹ thuật. Mặc dù lúc đầu ông được mọi người chú ý đến bởi những bài tình ca siêu hình và đôi khi siêu thực, nhưng những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn lại rất hợp lý và rất thực. Ông nhắc đến những trận đánh thật (trận Pleime, Đồng Xoài) và những vũ khí (Claymores, lựu đạn). Trong khi những bài tình ca không kể một câu chuyện chặt chẽ, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn lại ở dạng một câu chuyện và một số bài như “Người con gái Việt Nam da vàng” kể lại một câu chuyện rõ ràng từ đầu đến cuối. Trần Hữu Thục cho rằng khi một người nhìn vào toàn bộ sự nghiệp của Trịnh Công Sơn, những bài hát phản chiến của ông nổi bật trong một vị trí riêng khác hẳn những bài tình ca và những bài hát khác về thân phận con người. Những bài hát này mang vẻ như “những bài tường trình về chiến trận” (2001, 63). Tại sao Trịnh Công Sơn thay đổi lối viết lời ca? Trần Hữu Thục nói rằng bởi vì ông muốn gởi “một thông điệp rõ ràng” về chiến tranh và sự cần thiết của hoà bình (58).

Nếu những thông điệp của ông gởi đi được thành công, và sự nổi tiếng gần như ngay lập tức của những bài hát phản chiến của ông chứng tỏ điều đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng, trong những bài hát này, Trịnh Công Sơn lên tiếng cho những suy nghĩ riêng tư của rất nhiều người, và vì vậy ông đã trở thành người phát ngôn của cả một thế hệ. Trong rất nhiều bài viết về Trịnh Công Sơn sau khi ông qua đời, nhiều tác giả cảm ơn ông đã nói lên những gì chính họ không thể diễn đạt được. “Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ”, Bùi Bảo Trúc viết, trong một bài tưởng niệm. “Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất” (2001, 62). “Tiếng hát Trịnh Công Sơn”, Bửu Chỉ viết, “như một sợi dây vô hình đã nhanh chống nối kết những tâm trạng riêng, những số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong một tâm trạng chung, một số phận chung” (2001, 30).

Trong những buổi trình diễn trước công chúng, Trịnh Công Sơn được Khánh Ly, một ca sĩ tài năng, trợ giúp rất nhiều. Khánh Ly đóng một vai trò rất quan trọng trong sự thành công của Trịnh Công Sơn, và tôi sẽ bàn đến trong một phần riêng sau. Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly vào năm 1964 khi ông thăm thành phố cao nguyên trung phần Đà Lạt. Mười chín tuổi, vào thời điểm đó, cô đang hát cho “Night Club Đà Lạt”. Mặc dù Khánh Ly lúc đó chưa hề nổi tiếng, nhưng Trịnh Công Sơn “nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết” (2001/1998, 207). Họ lập tức cộng tác và ngay sau đó Khánh Ly chỉ hát những bài hát của ông và Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những bài hát với chủ ý dành cho giọng ca và tài năng của bà. Năm 1967, Khánh Ly và Trịnh Công Sơn bắt đầu xuất hiện cùng nhau tại các đại học Sài Gòn và Huế và những thành phố khác và “Quán Văn” ở Sài Gòn. Nhắc đến sự kiện danh tiếng nổi như cồn của họ, Khánh Ly nói rằng “Mọi sự đều bắt đầu từ Quán Văn”, một nơi mà bà thuật lại như sau:

“Quán Văn, cái tên quán dễ nhớ và dễ thương, mọc lên chơ vơ giữa lòng Sài Gòn [12] … Mái bằng lá, và những tấm ván ép hư bể, đuợc ghép lại, nhỏ hơn cái bếp ở đây [trong một căn hộ ở Montreal], [13] chỉ dành làm chỗ pha cà phê. Mỗi người tới tuỳ tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp đẽ nhất của một thời tôi còn trẻ.” (2001, 57)

Trịnh Công Sơn ở Huế suốt thời gian Tết Mậu Thân và đã thấy những xác người khắp những con đường và những dòng sông, trên bậc thang của những căn nhà trống và trên vùng Bãi Dâu nổi tiếng, nơi có rất nhiều xác người được tìm thấy, nhiều người đã nghi ngờ bị giết bởi quân của Mặt trận Giải phóng và quân Bắc Việt. “Hát trên những xác người”, “Bài ca dành cho những xác người” được viết vào thời gian này là hai bài hát ám ảnh nhất và gợi hình nhất trong các bài ca phản chiến. Là một nhạc sĩ mà sáng tác đầu tay là những bài hát mơ mộng của khoé mi ướt lệ và chuyện tình phù du, Trịnh Công Sơn giờ đây viết về những xác người và những con người hoá điên vì cuộc chiến. Trong những bài hát này, Nhật Lệ cho rằng, “anh đã viết nên những bài hát như đùa chơi với ma quỷ, chết chóc, mà thực ra là nỗi đau thương nước đến bàng hoàng” (2001/1999, 146). Bài hát đầu có nhịp vui nhộn, nhưng khi chú ý đến lời ca, bạn sẽ nhận ra rằng bài này nói về những con người hoá điên vì chiến tranh, như người mẹ vỗ tay reo mừng xác của chính con của bà:

Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
Bên khu vườn, một người mẹ ôm xác đứa con

Mẹ vỗ tay reo mừng xác con
Mẹ vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm nhịp nhàng
Người vỗ tay cho đều gian nan

Tôi đến Huế sau Tết Mậu Thân và sống với một gia đình người Việt trong khu vực thành Nội. Bên kia đường là một tiệm nhỏ bán những băng nhạc và người chủ tiệm phát đi phát lại những bài hát buồn này, có lẽ để thu hút người mua. Kết quả là, những lời ca này hằn sâu vào tâm trí tôi, đặc biệt là những lời ca trong bài “Bài ca dành cho những xác người”:

Xác nào là em tôi,
dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy,

bên những vồng ngô khoai.

Cá tính đặc biệt của con người Trịnh Công Sơn

Một thành tố quan trọng là mối tương quan giữa cá tính của người trình diễn và hoàn cảnh xã hội, văn hoá, chính trị vây quanh người ấy – điều mà tôi gọi là “hoàn cảnh trình diễn” (rhetorical situation). Hay nói cách khác, người ca sĩ có nắm được hoàn cảnh đặc biệt này hay không tuỳ thuộc không những chỉ vào chất lượng của bức thông điệp mà còn phụ thuộc vào nhận thức của thính giả về cá tính của người chuyển thông điệp nữa. Về cá tính, Trịnh Công Sơn có hai lợi thế. Thứ nhất, ông không liên hệ với bất kỳ phe phái chính trị hay tôn giáo nào. Trong môi trường chính trị nặng nề của miền Nam Việt Nam vào thập niên 1960 và 1970, rất khó để người Việt tìm được một tiếng nói họ có thể tin tưởng. Báo chí bị chính phủ giám sát, quan chức – cả bên quân đội và chính quyền – giữ kẽ lời nói của họ sao cho phù hợp với đề tài tuyên truyền, và các giáo sư e ngại thảo luận về những vấn đề chính trị vì sợ bị quy kết là những người thân cộng. Những nhà hoạt động thiên tả, rất nhiều người hoạt động ngầm cho phong trào của Cộng sản, cũng bị nghi ngờ. Tuy nhiên Trịnh Công Sơn giữ được khoảng cách với các phe phái chính trị khác nhau và tên của ông chưa bao giờ bị liên luỵ với bất kỳ một nhóm nào. Ông có những người bạn, như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã tham gia vào phong trào Cộng sản vào năm 1966, và những người bạn khác như Trịnh Cung (không liên hệ máu thịt với Trịnh Công Sơn) là người ở trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Mặc dù nhiều người bạn của ông tham gia vào phong trào Phật giáo ở Huế, Trịnh Công Sơn chưa bao giờ để mình trở thành người phát ngôn cho giới Phật tử. Bạn của Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ nói rằng Trịnh Công Sơn “không nhân danh một ‘Isme' (chủ nghĩa - ND) nào cả; cũng như không chủ trương chống lại một 'Isme' nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là 'humanisme', xu hướng nhân bản… Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của con tim mình” (2001, 30). Theo Đặng Tiến, việc mọi người nhận thức rằng Trịnh Công Sơn không mang động cơ chính trị “là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng” (2001b, 188).

Lợi thế thứ hai của Trịnh Công Sơn liên quan đến phong cách và cá tính của ông. Ông là một người Việt có chiều cao trung bình, hơi gầy, và mang đôi kính khá lớn, thường với gọng ngà. Khi ông hát trước thính giả, ông thường giới thiệu về ông và Khánh Ly rất ngắn gọn và rồi họ bắt đầu hát. Ông nói bằng giọng Huế nhẹ nhàng, điều này rất dễ lôi cuốn thính giả của ông. (Một số người Việt tin rằng giọng bắc có vẻ áp chế, và giọng nam thì có vẻ quá tự do và không tao nhã.) Đặng Tiến nói Trịnh Công Sơn có “dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ… Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người: mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không 'nhất' thì cũng gần gần như vậy” (2001b, 184). Tôi đã gặp Trịnh Công Sơn vài lần tại nhà của ông trên đường Nguyễn Trường Tộ ở Huế. Những nhà báo tôi biết muốn phỏng vấn ông và vì vậy tôi nhờ vài sinh viên sắp đặt các lần phỏng vấn. Tại một buổi gặp gỡ, Bửu Chỉ, bạn của ông, cũng có mặt. Trịnh Công Sơn trả lời các câu hỏi rất lịch sự, và khi được yêu cầu, ông hát một bài, vừa hát vừa gãy cây đàn guitar đã trầy cũ. Sự chân thật của Trịnh Công Sơn rất quan trọng cho sự thành công của ông, vì hồi đó các sinh viên trẻ đầu tiên đón lấy những bài hát của ông đã tạo ra một cộng đồng tương đối nhỏ. Thường thường trong những buổi trình diễn nhỏ và riêng tư như vậy cá tính của người trình diễn là một yếu tố rất quan trọng.

Để hiểu rõ lợi thế của Trịnh Công Sơn, chúng ta hãy so sánh ông với một nhạc sĩ cùng thời, Phạm Duy, một đối thủ không kém ảnh hưởng và danh tiếng mấy khi so sánh với Trịnh Công Sơn. Có một vài lý do tại sao Phạm Duy không thể gần gũi với những người trẻ ở miền Nam như Trịnh Công Sơn. Ông lớn hơn Trịnh Công Sơn hai mươi tuổi, đó là lý do đầu tiên. Vào giữa thập niên 1960, ông du học về âm nhạc tại Paris và đã có tiếng là một nhạc sĩ hàng đầu. Về cá tính, Phạm Duy ít khiêm nhường hơn – nghĩa là ông có vẻ công khai tự xưng tụng mình. Ông là một người miền bắc đã từng tham gia phong trào của Việt Minh vào những năm 1940, nhưng sau này thất vọng về chủ nghĩa cộng sản và đã di cư vào miền Nam, nơi ông trở thành người ủng hộ cho một loạt những chính thể chống cộng sản. Ông là bạn của nhân viên CIA nổi tiếng Edward Lansdale và thường tham dự các buổi “hootenanny” (những buổi trình diễn văn nghệ) tại nhà riêng của Lansdale (Phạm Duy 1991, 218). Ông còn là thành viên của Trung tâm Điện ảnh, là giáo sư tại trường Quốc gia Âm nhạc, làm việc hàng tuần với đài phát thanh của chính phủ, và cộng tác với Sở Thông tin Hoa Kỳ trong những dự án khác nhau. Bởi họ coi ông là một nhân vật văn hoá quan trọng, những quan chức Hoa Kỳ tại Việt Nam đã sắp xếp cho ông đến Hoa Kỳ một vài lần. Tóm lại, Phạm Duy không giữ thái độ trung lập và vì vậy một số người cảm thấy họ không thể tin ông được.

Khi tập nhạc Mười bài tâm ca của Phạm Duy xuất hiện vào giữa thập niên 1960, nó được đón nhận với những phản ứng khác nhau. Một số người trẻ yêu thích những bài hát này, vì chúng, cũng như những bài hát của Trịnh Công Sơn, nói về hoà bình và hoà hợp, nhưng một số khác phản ứng với sự ngờ vực. Đặng Tiến viết “Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết 'tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già' [14] nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn” (một cố gắng không thành của chính quyền Sài Gòn để lôi kéo những người ở vùng nông thôn) (2001b, 186). Đến giữa những năm 1960, Phạm Duy đã không còn khả năng lôi cuốn những sinh viên yêu chuộng hoà bình, đặc biệt là những người khuynh tả. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn thân của Trịnh Công Sơn, người đã rời Huế trước Tết 1968 để tham gia vào phong trào Cộng sản, viết rằng một số sinh viên yêu thích Mười bài tâm ca của Phạm Duy, nhưng những sinh viên khuynh tả coi tập nhạc này “là một thủ pháp tâm lý chiến nhằm xả xú báp đỡ đòn cho quân đội Mỹ” (1995/1994, 55). Chính Phạm duy đã thường nhận rằng ông có mục đích chính trị khi viết Mười bài tâm ca. Trong hồi ký của mình, ông xếp tập nhạc này với những “tác phẩm có tính cách phục vụ xã hội. Đó là những bài hát cho Bộ Thông Tin hay Bộ Chiêu Hồi, cho Quân Đội và cho Xây Dựng Nông Thôn” (1991, 218-219).

Lẽ dĩ nhiên không phải tất cả mọi người miền Nam đều yêu thích Trịnh Công Sơn và những bài hát phản chiến của ông. Những bài hát của ông đã có những hậu quả thật sự, như Bửu Chỉ nêu ra:

Nó đã làm cho một số không ít thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn bạo của cuộc chiến khiến họ đi đến hành động trốn lính hay đào ngũ. Dưới con mắt của những người cầm quyền thuộc chế độ cũ Sơn là môt kẻ phá hoại tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ” (2001, 31).

Điều này, chắc chắn, là lý do vì sao chính quyền Sài Gòn đã cố gắng, tuy vô ích, để ngăn cấm những bài hát của ông. Việc những bài phản chiến của ông đã có những tiếng vang quan trọng làm ông gần gũi với nhũng người như họa sĩ Bửu Chỉ, người đã vẽ những bức tranh phản chiến và đã bị tù vì quan điểm chống chính quyền của ông. Một số người khác cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn nhưng lại có vấn đề với những bài ca phản chiến vì họ cho rằng Trịnh Công Sơn đã đóng góp một phần nào đó trong sự thành công của phe Cộng Sản. [15] Phạm Duy và Trịnh Cung, lúc đó sống tại California, không thích cụm từ “phản chiến” này. Trịnh Cung, một người bạn cũ của Trịnh Công Sơn, người đã từng phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà, tranh luận rằng “phản chiến” không phải là một cụm từ thích hợp “bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam”. Trịnh Cung cho rằng chúng ta nên nói rằng những sáng tác của Trịnh Công Sơn trong thời chiến là về “thân phận của người Việt” (2001, 79).

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly

Sau năm 1975, nhiều nữ ca sĩ trẻ hát những bài hát của Trịnh Công Sơn, trong đó có cả em gái của ông, Trịnh Vĩnh Trinh. Nhưng với nhiều người Việt thuộc thế hệ Trịnh, Trịnh Công Sơn luôn gắn kết với Khánh Ly, ca sĩ tại Quán Văn tại Sài Gòn, tại những buổi trình diễn ở các trường đại học, và sau đó là người hát trong các băng cassette và đưa những bài hát của ông đến với những người hâm mộ. Trịnh Công Sơn có giọng tốt và ở những buổi trình diễn thường hát khoảng một nửa những bài hát, tiếp theo đó hát song ca một số bài với bà, và sau đó Khánh Ly hát những bài còn lại. Nhưng giọng của Trịnh Công Sơn không được mạnh và hay như của Khánh Ly. Văn Ngọc diễn tả giọng của Khánh Ly khi bà còn là một ca sĩ trẻ mới bắt đầu hát những bài hát của Trịnh Công Sơn:

Khánh Ly bộc lộ rõ khả năng giọng hát của mình, một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khỏe, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy, đúng lúc… Một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi hai mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến.” (2001, 26)



Như Trịnh Công Sơn, Khánh Ly sống một cuộc đời ngoài vòng khuôn khổ. Cha của bà đã từng tham gia kháng chiến và chết sau bốn năm khổ sai trong lao tù khi bà còn rất nhỏ. Không như Trịnh Công Sơn, bà không sống gần gũi với mẹ mình. Bà mô tả mình như một đứa trẻ mồ côi, bị gia đình bỏ rơi. Vì vậy, bà bỏ nhà, đi hát kiếm tiền nuôi thân với sự giúp đỡ của một vài người bạn. “Tôi quờ quạng, sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng, nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia cho nửa chai nước mắm. Nghèo mà vui, tôi không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi, từ bỏ” (1988, 16). Bà đã nói như vậy về cuộc sống của bà lúc đó.

Năm mười tám tuổi, Khánh Ly kết hôn và được rửa tội trở thành một người công giáo. Dường như chồng của bà là giám đốc của một đài phát thanh ở Đà Lạt, là một người thông cảm hay ít ra để cho bà có thể đi hát với Trịnh Công Sơn ở Sài Gòn và Huế (Nguyễn Thanh Ty 2004, 93). Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Khánh Ly nói rằng cuộc hôn nhân đầu tiên của bà là một lỗi lầm và nói rằng, cũng như chồng hiện tại của bà, bà đã sống một cuộc đời với nhiều người chồng và nhiều tình nhân (2004, 82). Cả Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đều không có cha để hướng dẫn họ vào đời. Những thành công phi thường của họ có thể phần nào là kết quả của sự tự do mà họ có được: Những người cha của họ có thể đã bắt họ phải sống một cuộc đời bình thường hơn.

Quan hệ tình cảm dễ dàng và sự tự do của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly cũng là một lý do góp phần vào thành công đưa đến hiện tượng Trịnh Công Sơn. Họ là cặp người mẫu của thế hệ trẻ, thoát khỏi lề lối Nho giáo trói buộc những mối quan hệ giữa hai giới. Đặng Tiến nhận xét:

Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh 'đôi lứa', một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi bạn [16] chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nước, trong đó, 'mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay'[17] (2001b, 185).

Khánh Ly, người nói và viết giọng đầy kịch tính, đã viết rất cảm động về mối tình của bà với Trịnh Công Sơn trong một bài viết vào năm 1989. [18] Được hỏi về bài viết này một năm sau đó, Trịnh Công Sơn ca ngợi bài viết nhưng nói rằng “những câu nói âu yếm trong bài là dành cho một người khác đã chết rồi. Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn.Thương nhau vô cùng, trên tình bạn” (2001/1989, 215).

Khi Khánh Ly rời Việt Nam đến Hoa Kỳ vào năm 1975, và Trịnh Công Sơn quyết định ở lại Việt Nam, hoàn cảnh của họ tượng trưng cho rất nhiều nỗi đau chia ly của người Việt, và sự buồn bã của cuộc sống tha hương. Khoảng 1977-1978, khi số người Việt Nam vượt biên bằng đường biển lên đến đỉnh điểm, Trịnh Công Sơn đã viết bài “Em còn nhớ hay em đã quên” bắt đầu như sau:

Em còn nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức
Sáng che em vòm lá me xanh
Em còn nhớ hay em đã quên?
Bên hàng xóm đôi khi ghé thăm
Có hai mùa vẫn đi về
Có con đường nằm nghe nắng mưa
Em ra đi nơi này vẫn thế
Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly có thể chỉ là hai người bạn thân thiết, không phải là tình nhân, nhưng nhiều người Việt Nam tin rằng ông đã viết bài hát này cho bà. [19]

(Còn tiếp)

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

[1]Từ câu “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu”, trong một cuộc phỏng vấn không rõ ngày tháng với Trịnh Công Sơn, được in lại trong Nguyễn Trọng Tạo, 2001, 221.
[2]Trần Hữu Thục cho rằng cách tiếp xúc mới trong ca từ (ví dụ, ca từ khác lạ và cấu trúc khác thường) làm những ý niệm Phật giáo và Lão giáo trở nên mới lạ (2001, 77). Cách “gói” mới lạ những tư tưởng truyền thống có thể là lý do vì sao Thái Kim Lan và những người vòng bạn bè của bà đã không thể lập tức nhận ra những chủ đề Phật giáo trong những bài hát của Trịnh Công Sơn.
[3]Xem phần Chú thích II.
[4]“Thời thơ ấu tôi luôn luôn bị ám ảnh về cái chết. Trong giấc ngủ hằng đêm tôi thường thấy cái chết của ba tôi” (Trịnh Công Sơn 2003/1987b, 182-83).
[5]Xem Bửu Ý (2003, 18-19, 89-91), Hoàng Phủ Ngọc Tường (2004, 23-25, 120), Thái Kim Lan (2001, 82-86), và Sâm Thương (2005).
[6]Thiền là một trường phái của Phật giáo và chắc chắn có sự khác biệt giữa Thiền và chủ nghĩa hiện sinh. Để tìm hiểu thêm về sự khác biệt và tương đồng, xem Rupp (1979) và Muller (1998). Trong “Death, Buddhism, and Existentialism in the Songs of Trịnh Công Sơn” (Bản dịch tiếng Việt) tôi tranh luận rằng “triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn đa số là từ Phật giáo (Schafer 2007).
[7]Xem phần Chú thích II.
[8]Rất khó để phân biệt những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn với những bài hát về tình yêu và quê hương của ông. Những bài tình ca như “Diễm xưa” và những bài hát về thân phận con người thường được coi là những bài hát phảng phất vẻ phản chiến khi hát trong thời gian con người trăn trở mong hoà bình. Michiko Yoshi, một nhà nghiên cứu tại Đại học Paris, tìm thấy 69 bài hát phản chiến trong số 136 bài hát Trịnh Công Sơn sáng tác trong giai đoạn từ 1959 đến 1972 (xem Đặng Tiến, 2001b, 130). Cho mục đích của tôi [trong bài viết này], tôi cho rằng những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn là những bài hát thể hiện khát khao hoà bình được tìm thấy trong những tập nhạc sau: Ca Khúc Trịnh Công Sơn [1966], Ca Khúc Da Vàng [1966/1967], Ca Khúc Da Vàng II [1968], Kinh Việt Nam [1968], Ta Phải Thấy Mặt Trời [1969], và Phụ Khúc Da Vàng [1972].
[9]Nhật Lệ (2001/1999, 134-153), Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001/1995, 23-27), và Nguyễn Thanh Ty (2001, 2004) mô tả giai đoạn này của người nhạc sĩ. Xem thêm bài phỏng vấn Trịnh Công Sơn của Hoài An (2001/2000, 119-120) và “Thời kỳ trốn lính” (2003/1987a, 179-182) của ông.
[10]Theo Nguyễn Đắc Xuân (2003, 100), đây là sắc lệnh 33, ban hành ngày 8 tháng 2, 1969.
[11]Xem toàn bộ bài hát này trong phần Chú thích II.
[12]Nó được xây dựng dựa trên nền tàng của một nhà tù nổi tiếng thời thực dân có tên gọi là Khám Lớn và nằm trong khuôn viên của Văn Khoa, Đại học Sài Gòn (Phạm Duy 1991, 283).
[13]Khánh Ly sống tại miền nam California nhưng bà gặp lại Trịnh Công Sơn tại Montreal năm 1992. Trịnh Công Sơn lúc đó đến Montreal để thăm một số người em của ông đang sinh sống tại đó.
[14]Đặng Tiến trích dẫn những câu đầu trong bài hát thứ hai trong tập nhạc của Phạm Duy, “Tiếng hát to”.
[15]Ví dụ, xem Trịnh Cung, 2001, 79.
[16]Trong Đôi bạn, xuất bản năm 1936, một người theo cách mạng tên Dũng đem lòng yêu Loan, một người phụ nữ tân tiến, người cùng với Dũng chống lại những khắc khe của xã hội Nho giáo và chế độ phong kiến.
[17]Đặng Tiến trích dẫn những câu trong bài hát “Gọi tên bốn mùa” của Trịnh Công Sơn.
[18]Bài viết này được Lữ Quỳnh nhắc đến trong một lần phỏng vấn Trịnh Công Sơn (2001, 1989, 214).
[19]Theo Cổ Ngư, nhiều người nam cảm kích bài hát này bởi vì nó là bài hát đầu tiên sau ngày 30 tháng 4, 1975, nhắc đến tên gọi Sài Gòn, thành phố lớn nhất của họ, thay vì Thành phố Hồ Chí Minh (2001, 9-10). Bài hát này bị cấm lưu hành như tôi giải thích trong phần “Thích nghi với chế độ mới”.

Nguồn: The Journal of Asian Studies Vol. 66, No. 3 (August) 2007: 597-643. Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, phần 1 - 7.2.2008 và phần 2 - 8.2.2008

Saturday, July 9, 2011

Mark Alves - Khái quát các nghiên cứu ngôn ngữ học về nguồn gốc của tiếng Việt

Tóm tắt: Trong khi đa số các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cả ở trong và ngoài nước Việt Nam cho tiếng Việt là một ngôn ngữ Môn-Khme thuộc họ ngôn ngữ vùng Nam Đảo, thì vẫn có một số ý kiến phản bác và trong công chúng vẫn tồn tại sự nhầm lẫn. Bài viết này xem xét bốn giả thiết về nguồn gốc ngôn ngữ của tiếng Việt, các giả thiết này đặt tiếng Việt vào các nhóm ngôn ngữ khác nhau như: Nam Á, Nam Đảo, Hán hay Tai-Kadai. Trên cơ sở phương pháp luận ngôn ngữ học và các kịch bản có thể xẩy ra trong giao tiếp giữa các dân tộc, thì quan điểm phổ biến cho rằng tiếng Việt thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á vẫn khả thi nhất.

Lướt qua các từ điển bách khoa toàn thư thông dụng (1) thì giới ngôn ngữ học xếp tiếng Việt vào tiểu nhánh Môn-Khmer thuộc họ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic), do đó gắn tiếng Việt vào nhóm có nguồn gốc chung với hơn 160 ngôn ngữ sử dụng trên toàn lục địa Đông Nam Á (2). Tuy nhiên, có những người phản bác lại quan điểm này. Họ đưa ra cách phân loại khác, và xếp tiếng Việt vào cùng nhóm ngôn ngữ Vùng Nam Đảo, hoặc nhóm ngôn ngữ thanh điệu Tai-Kadai (3), hay Hán (4). Yếu tố làm cho việc xếp tiếng Việt với nhóm Môn-Khmer khó có thể chứng minh một cách chắc chắn là kho từ vựng rất phong phú của tiếng Việt bao gồm từ có gốc thuộc các hệ ngôn ngữ Nam Á, Hán, Tai-kadai, và ở mức độ ít hơn, là hệ ngôn ngữ Vùng Đảo Nam Á - TBD. Hơn nữa, loại hình ngôn ngữ học của tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn âm và có thanh điệu, làm cho giả thiết về nguồn gốc Nam Á của nó thậm chí còn mờ nhạt hơn, vì các ngôn ngữ Môn-Khmer thường có hai âm tiết và không có thanh điệu. Chỉ có việc áp dụng các công cụ tái hiện chuyên dùng trong ngành Ngôn ngữ học lịch sử thì nguồn gốc Môn-Khmer của tiếng Việt mới có thể được minh chứng một cách rõ ràng hơn.

Trong thực tế, tuy đa số các chuyên gia ngôn ngữ ở Việt Nam nhất trí với quan điểm xếp tiếng Việt vào họ Nam Á (5), các bản đồ chính thức của Việt Nam có ghi phân bố địa lý của các nhóm dân tộc thiểu số [1] kèm theo các nhóm ngôn ngữ của họ cho thấy việc xếp loại tiếng Việt vẫn chưa dứt khoát, tuy tiếng Việt và tiếng Mường liên quan với nhau, nhưng ám chỉ rằng hai ngôn ngữ này ít nhiều có nguồn gốc khác hẳn với tất cả các nhóm ngôn ngữ khác ở Việt Nam. Sự không chắc chắn kéo dài này là đáng kể vì tiếng Việt có số lượng người sử dụng lớn nhất (trên 82 triệu) trong tất cả các ngôn ngữ được dùng ở lục địa Đông Nam Á. Do vậy, việc xem xét lại những bằng chứng đã đưa ra để ủng hộ các giả thiết đối ngược nhau là điều cần làm.

Tuy phần lớn những ý tưởng được trình bày trong bài viết này có thể đã được tổng hợp một phần ở nhiều tài liệu khác nhau, nhưng cho đến thời điểm này, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập hợp đầy đủ các lý lẽ biện minh cho giả thiết Môn-Khmer và bác bỏ các quan điểm đối chọi khác. Mục đích của bài này là mô tả khái quát và tránh không đi sâu vào chuyên môn (những thuật ngữ cần thiết đều được chú giải) các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ lịch sử và những tranh luận về cách phân loại tiếng Việt (chẳng hạn như ngôn ngữ này có chung nguồn gốc với những ngôn ngữ nào) dựa trên nhiều giả thiết khác nhau. Nhìn chung, trên cơ sở áp dụng thận trọng phương pháp nghiên cứu chuẩn mực của ngành ngôn ngữ học lịch sử và xét đến những bối cảnh di trú và tương tác giữa các sắc tộc có khả năng xảy ra thì giả thiết tiếng Việt bắt nguồn từ nhóm Môn-Khmer vẫn là khả quan nhất. Đúng vậy, bằng chứng ủng hộ cho giả thiết này cũng chính là loại bằng chứng mà người ta thường dựa vào để chứng minh nguồn gốc chung của các ngôn ngữ. Hơn nữa, giả thiết này còn cho thấy một hiện tượng thú vị của việc một ngôn ngữ phát triển từ phi thanh điệu sang có thanh điệu và đồng thời rút gọn từ đa âm xuống đơn âm tiết.

1. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt

Bản tóm tắt đầy đủ nhất các nghiên cứu đầu tiên về nguồn gốc ngôn ngữ học lịch sử của tiếng Việt là từ một bài viết của William Gage [2, 493-524]. Vấn đề phả hệ của nguồn gốc ngôn ngữ học của tiếng Việt bắt nguồn từ đầu thế kỷ 19, khi Giám mục Jean-Louis Taberd lần đầu tiên tuyên bố rằng tiếng Việt là một biến thể của tiếng Hán. Sau đó, vào năm 1856, James Logan gợi ý rằng “tiếng An-nam” là một bộ phận của họ ngôn ngữ Môn-Khme mà ông gọi là “cấu trúc Môn-An nam”. Chắc chắn quan điểm này mang tính suy đoán vì khối lượng dữ liệu khi đó rất hạn chế [2], và đến đầu thế kỷ 20, quan điểm này đã bị thách thức. Năm 1912, sử gia đồng thời là nhà nghiên cứu ngôn ngữ học nổi tiếng người Pháp là Henri Maspéro đã viết một chuyên khảo trong đó ông khẳng định rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Tai [3]. Mãi tới giữa thế kỷ 20 một nhà ngôn ngữ học người Pháp khác, André Haudricourt, xuất bản ba bài [4-6] viết cung cấp căn cứ ngôn ngữ học theo đó tiếng Việt có thể được chứng minh một cách thuyết phục là có nguồn gốc thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á cả trên cơ sở dữ liệu về từ vựng và âm vị (6). Từ đó, các nghiên cứu về đề tài này chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ giữa tiếng Việt với nhóm Môn-Khme.Michel Ferlus [7,8], Gage [2], Gerard Diffloth [9,10], Nguyễn Văn Lợi [11] và Nguyễn Tài Cẩn [12] đã đưa ra một số ấn phẩm quan trọng nhất về vấn đề này, và các công trình của nhiều học giả khác đã cung cấp thêm các bằng chứng hỗ trợ. Tuy nhiên, trong con mắt của một số học giả, một số yếu tố phức tạp làm cho vấn đề này vẫn chưa được giải quyết.

2. Công cụ lý thuyết của Ngôn ngữ học lịch sử

Giống như trong khảo cổ học, các phương pháp tiếp cận trong ngành ngôn ngữ học tuỳ thuộc vào tính thuyết phục của các bằng chứng và các giả thiết hợp lý (7). Suy cho cùng, những suy đoán về quá khứ xa xưa không thể có sự chắc chắn tuyệt đối, nhưng có thể dựa trên các dữ liệu về ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử hiện có, có thể đưa ra các giả định lô-gic và loại trừ một số khả năng. Sử dụng các thông tin như vậy, người ta có thể trình bày quan điểm về cơ cấu ngôn ngữ học của các ngôn ngữ trong quá khứ (được gọi là “phục nguyên”), tương tác giữa các ngôn ngữ và các nhóm ngôn ngữ (ví dụ sự vay mượn các thành tố từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ), và các mối quan hệ phả hệ ngôn ngữ học (ví dụ mối quan hệ với một họ ngôn ngữ nhất định).

Hai thành tố cơ bản cho phép các nhà nghiên cứu xếp hai ngôn ngữ vào một họ ngôn ngữ là (1) một bộ từ vựng cơ bản chung, và (2) các bộ âm tương xứng lặp lại nhiều lần giữa hai ngôn ngữ (ví dụ một âm trong một ngôn ngữ giống hệt hay tương tự như một âm trong nhiều từ cùng gốc [tức là các từ có chung nguồn gốc] thuộc một ngôn ngữ khác, do đó tạo ra một mô hình tương xứng). Thời gian quá xa xưa có thể làm cho một số vấn đề trở nên đáng nghi ngờ vì đã trải qua nhiều thay đổi, tuy nhiên ngay như vậy thì mô hình tương xứng về âm vị cũng cần đủ hoàn chỉnh để có thể phục nguyên một ngôn ngữ nguyên thuỷ, tức là một ngôn ngữ trong
quá khứ mà từ đó các ngôn ngữ liên quan được hình thành. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, các chi tiết về lịch sử, khảo cổ, và/hoặc nhân chủng học cần cung cấp các bằng chứng bổ sung và các kịch bản khả thi để giải thích cho việc một ngôn ngữ tách thành nhiều ngôn ngữ.

Thuật ngữ “từ vựng cơ bản” vừa có tính khách quan, vừa rất ấn tượng, song đối với các hệ ngôn ngữ đã hình thành vững chắc như Ấn - Âu, một hệ liên kết các ngôn ngữ có phạm vi địa lý rộng lớn như tiếng Hindi và tiếng Anh, và hệ Hán - Tạng, một nhóm gồm hơn hai trăm ngôn ngữ khác nhau[13,14], bao gồm cả những ngôn ngữ mà tên gọi của nó đã nói nên phần nào bản chất, tiếng Hán và tiếng Tây Tạng - thì thuật ngữ này có thể minh hoạ dễ dàng. Từ vựng cơ bản gồm các loại từ của một ngôn ngữ ít có khả năng mất đi trong thời gian hàng thế kỷ hay thiên niên kỷ và có nhiều khả năng tồn tại trong thời gian dài hơn các loại từ vựng không phải là cơ bản khác. Những từ có thể được xem là thực sự cơ bản bao gồm các, các bộ phận của cơ thể, các hiện tượng thiên nhiên và động vật thông thường, và các hành vi/hoạt động cơ bản, ngoài các loại ngữ nghĩa thông thường khác và các khía cạnh về sự tồn tại của con người. Đây chính xác là các từ mà chúng không chỉ liên kết các ngôn ngữ Môn-Khme thành một hệ ngôn ngữ, mà còn liên kết chúng với ngôn ngữ tiếng Việt. Trong khi xác định các mối liên kết ngôn ngữ học, các từ có ngữ nghĩa chung chung hơn hữu ích (8) hơn các từ có nghĩa cụ thể hơn nhưng lại gắn với các từ thuộc các nhánh nhỏ trong phạm vi các chủng loại rộng hơn. Ví dụ, từ con chim [bird], một từ nguyên Môn-Khme nói tới cả một phạm trù ngữ nghĩa, trong khi từ bồ câu [pigeon], có thể có gốc từ ngôn ngữ Tai-Kadai, chỉ một loài chim cụ thể, mà nó làm cho từ nguyên Môn-Khme càng hữu ích hơn. Từ vựng cơ bản có xu hướng đề kháng với các giao lưu ngôn ngữ vừa phải (tức là giao lưu giữa các nhóm dân tộc dẫn đến những thay đổi về ngôn ngữ), một tình huống diễn ra một số vay mượn từ vựng (9). Điều này làm cho chủng loại từ vựng cơ bản trở nên hữu ích hơn cho việc xác định nguồn gốc ngôn ngữ chung của các ngôn ngữ. Cuối cùng, môn thống kê từ vựng học, tức là việc đánh giá mức độ sử dụng chung từ vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ, là một công cụ bổ trợ có thể sử dụng để xác định mức độ liên hệ giữa các ngôn ngữ và đánh giá được phần nào các bằng chứng của nguồn gốc ngôn ngữ.

Phương pháp thống kê thẳng thắn này hẳn có thể là nền tảng của các nghiên cứu sau này, nhưng không nhất thiết đưa đến kết quả chắc chắn bởi vì ngôn ngữ vay mượn từ vựng và đôi khi với số lượng lớn. Bằng chứng về sự cùng nguồn gốc của hai ngôn ngữ liên quan đến việc xác định mô hình âm vị của hai âm đối lập và song song nhau. Hơn nữa, nếu xuất hiện càng nhiều ví dụ về các mô hình như vậy, thì lập luận về tình trạng cùng nguồn gốc càng vững chắc. Ví dụ, tìm được vài ví dụ về các từ có âm răng /d/ trong một ngôn ngữ và âm răng /n/ trong một ngôn ngữ khác sẽ củng cố thêm lập luận rằng hai ngôn ngữ này ít nhiều có liên hệ với nhau, dù có thể nói chắc chắn về các quan hệ phả hệ hay giao tiếp giữa hai ngôn ngữ này hay không. Để xác định cùng nguồn gốc phả hệ, sự tương xứng về âm vị giữa các bộ từ vựng cơ bản trong hai ngôn ngữ cần bao gồm đủ các mục từ vựng để phục nguyên các hệ thống âm hoàn chỉnh và, lý tưởng nhất là một dạng phục nguyên văn hoá xã hội nào đó (tức là sự phục nguyên một hệ thống văn hoá và cách sống chứ không chỉ là hệ thống ngôn ngữ) dựa trên từ vựng cơ bản. Việc này cũng đòi hỏi phải so sánh các giai đoạn trước đó đã được phục nguyên của các nhóm ngôn ngữ chứ không chỉ là hai ngôn ngữ trong dạng hiện đại của chúng. Có được các từ cùng gốc với sự tương xứng về âm vị trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, kể cả các ngôn ngữ xa nhau về địa lý (do đó giảm bớt khả năng vay mượn), có thể củng cố thêm lập luận về cùng nguồn gốc phả hệ. Nếu không có loại bằng chứng này, các lập luận đó sẽ kém thuyết phục hơn. Trong khi việc xác định kho từ vựng cơ bản và sự tương ứng âm vị đều đặn vẫn là cơ sở để đánh giá cùng nguồn gốc ngôn ngữ, trong trường hợp cụ thể của tiếng Việt, cần có thêm tiêu chuẩn để giảm bớt hơn nữa tính không chắc chắn có thể xảy ra. Một trong các nguy cơ của Sprachbund, hay gọi là vùng ngôn ngữ, như Đông Nam Á, là từ ở các ngôn ngữ khác nhau lại có thể giống nhau về cả âm vị và ngữ nghĩa do sự giống nhau về tượng hình trong các hệ thống âm vị và chức năng ngữ nghĩa, ngữ pháp, chức năng ngôn ngữ thực tiễn nhưng vẫn chưa hình thành các từ nguyên liên hệ với nhau. Hiện tượng “từ cùng gốc giả” hay “trông giống nhau”, các trường hợp giống nhau ngẫu nhiên về âm vị hay ngữ nghĩa là một vấn đề rắc rối nổi bật trong ngôn ngữ học Đông Nam Á vì nhiều ngôn ngữ ở vùng này có số từ đơn âm đáng kể, ngoài những giống nhau về tượng hình khác. Có xu hướng là một số từ nhất định hay loại từ nhất định rất phổ biến trong các ngôn ngữ ở khu vực này, như vùng ngôn ngữ Đông Nam Á, nơi có nhiều hoạt động giao tiếp giữa các nhóm dân tộc đến mức chúng thực sự làm giảm khả năng của chúng ta trong việc thiết lập cùng nguồn gốc phả hệ. Trường hợp này phổ biến trên toàn thế giới đối với trường hợp từ “mẹ”, một từ thường bắt đầu bằng âm /m/, hay từ “bố” thường bắt đầu bằng âm /f/ hay một âm tương tự. Ở Đông và Đông Nam Á, những từ tương tự nhau trong nhiều hệ ngôn ngữ gồm các từ diễn đạt “mắt” hay các từ chỉ định “này/kia”, và trên cơ sở các dữ liệu hiện có hay về phương pháp luận chưa có thể nói được liệu các trường hợp giống nhau này hay những trường hợp khác là kết quả của những nguồn gốc xa xưa hơn giữa các hệ ngôn ngữ hay đơn thuần chỉ là các giao lưu ngôn ngữ.

Tốt nhất là loại trừ những từ có thể có nhiều nguồn gốc ngôn ngữ, hay ít nhất thừa nhận chúng là bằng chứng kém thuyết phục hơn của lập luận về nguồn gốc giữa các họ ngôn ngữ riêng biệt, một quan điểm ít được xem xét đến trong các nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Điều cốt yếu là phải xem xét yếu tố địa lý, như trường hợp Bắc Việt Nam, khi kiểm tra những liên quan về từ vựng có thể có với các ngôn ngữ láng giềng - mà không coi trọng nhóm này hơn nhóm kia - bởi vì vùng này là một mắt xích địa lý giữa Trung Quốc, lục địa Đông Nam Á với vùng đảo Đông Nam Á. Cuối cùng, hiện tượng tượng thanh là một vấn đề nữa làm suy yếu lập luận về từ cùng nguồn gốc; ví dụ tiếng Việt có từ cắt [cut] cũng như các dạng ngữ âm tương tự của cùng một từ trong các ngôn ngữ Môn-Khme (ví dụ tiếng Khme kat), tiếng Tai (ví dụ tàt), và tiếng Trung Quốc phía nam (ví dụ tiếng Quảng Đông chit [15]). Một phương pháp tiếp cận bảo thủ hơn có thể gồm rất nhiều các từ cùng gốc nhưng sau đó loại bỏ hay xử lý cẩn thận tới mức có thể theo các tiêu chí loại bỏ nhất định (xem danh mục dưới đây).

Như vậy, những dữ liệu còn lại có thể có nhiều giá trị chứng minh cho nguồn gốc ngôn ngữ hơn. Các tiêu chí để xác định nguồn gốc ngôn ngữ có thể gồm:

1. Số lượng từ vựng cơ bản (toàn bộ);
2. Các mô hình tương xứng về âm vị của từ vựng cơ bản (toàn bộ);
3. Số lượng các ngôn ngữ trong một hệ ngôn ngữ có từ gốc chung (toàn bộ);
4. Các khả năng đa dạng trong các hệ ngôn ngữ khác nhau (loại trừ);
5. Tính chất tượng thanh (loại trừ) 

Ngoài phương pháp luận chung được mô tả ở trên, các kịch bản về lịch sử của sự di cư và giao lưu của con người cũng phải được xem xét. Nếu bằng chứng ngôn ngữ cho thấy hai ngôn ngữ có chung bối cảnh lịch sử thì bằng chứng này gợi ra mối quan hệ dân tộc nào? Trước những dữ liệu lịch sử có được thì các giả thiết vững chắc đến đâu, và ta đã biết được gì về các hoàn cảnh ngôn ngữ, xã hội và địa lý?

Mặc dù các nghiên cứu như vậy hẳn mang tính phỏng đoán, tính vững chắc của mỗi giả thiết về nguồn gốc ngôn ngữ khi nói về con người phải được xem xét ít nhiều.

3. Tiếng Hán (10)

Sự giao tiếp về văn hoá của người Việt với người Trung Quốc có từ hơn hai ngàn năm trước đây - một ngàn năm đô hộ của Trung Quốc, tiếp theo là một ngàn năm của thân phận chư hầu phải cống nạp và sự giao lưu văn hoá với các cường quốc phía bắc. Như nói ở trên, giả thiết về nguồn gốc phả hệ của tiếng Việt với tiếng Hán có từ thời thuộc địa và có vẻ vẫn còn rơi rớt trong các giả thiết phổ biến. Quan điểm như vậy chủ yếu dựa vào số lượng rất lớn dễ nhận thấy từ vựng Hán trong tiếng Việt, những nét giống nhau quan trọng về loại hình ngôn ngữ giữa hai ngôn ngữ và, ít nhất tới đầu thế kỷ hai mươi, là việc sử dụng chữ viết Hán trong tiếng Việt (song song với chữ Nôm dựa trên cách viết của tiếng Hán).

Tuy nhiên, những khía cạnh này đều có vấn đề. Từ ngữ có thể được vay mượn, và chính là loại từ dùng chung, chứ không chỉ là số lượng, củng cố các giả thiết về nguồn gốc chung. Tiếp theo, trong khi cả tiếng Hán và tiếng Việt đều có thanh điệu, thì các ngôn ngữ lân cận như Tai-Kadai và Hơ-mông - Miên cũng có. Cuối cùng, chữ viết (một sản phẩm của con người có thể lưu truyền và không phải là một tài năng di truyền) chung cho cả hai ngôn ngữ rõ ràng không phải là một chỉ thị của nguồn gốc ngôn ngữ gốc; chỉ có ngôn ngữ nói được đại diện bằng chữ viết là có thể sử dụng được cho mục đích này. Một điều quan trọng nữa cần phải lưu ý là những giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hán không nhất thiết là kết qủa của ảnh hưởng của tiếng Hán. Một số nét giống nhau có thể là kết quả của khu vực địa lý bất kể hệ ngôn ngữ nào, hay những sự giống nhau cũng có thể là kết quả của những thay đổi tự nhiên nội tại của ngôn ngữ. Ít nhất, nói rằng thực trạng hiện nay của tiếng Việt được xác định chỉ bằng những giao tiếp với tiếng Hán là quá đơn giản hoá sự việc [16, 221-242]. 

Trong khi việc xem xét những nét giống nhau nổi bật giữa tiếng Việt và tiếng Hán rất lý thú và quan trọng, việc xem xét những nét không giống nhau hay những gì trong tiếng Việt không bắt nguồn từ tiếng Hán cũng quan trọng không kém. Đặc biệt chúng ta phải nhận ra các yếu tố cần thiết để xác lập nguồn gốc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Trừ một số ít tài liệu và các trường hợp chuyên biệt, không một đại từ hay số từ nào trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán (11). Những từ biểu đạt các hiện tượng thiên nhiên thực sự cơ bản cũng không xuất phát từ tiếng Hán, ví dụ từ chó /dog/, chim /bird/, củi /firewood/, nước /water/, lá /leaf/, rễ /root/ và một số từ khác, mà trong thực tế có nguồn gốc từ hệ Môn-Khme (12). Nói chung, những loại từ vựng cơ bản gắn kết nhiều biến thể khác nhau của tiếng Hán thành một nhóm ngôn ngữ hầu như không có trong tiếng Việt (13).

Về ngữ pháp, trật tự danh từ trong cụm từ tiếng Việt đặt danh từ trước từ bổ nghĩa (một đặc tính có cả trong ngôn ngữ Môn-Khme và Tai ở khu vực này) là ngược lại với tiếng Hán từ bổ nghĩa đứng trước danh từ. Quả vậy, loại từ vựng mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán phần lớn chính là loại từ vựng mà các ngôn ngữ thường
vay mượn nhau: đó là từ vựng chỉ các vật dụng mang tính văn hoá cụ thể và các biểu đạt về văn hoá (ví dụ các dụng cụ trong gia đình, các vật dụng hay khía cạnh về y tế, về cơ quan quản lý của chính phủ, và nghệ thuật), và không phải là từ vựng cơ bản là các từ tương đối có sức chống lại việc vay mượn.

Thay vì các từ có nguồn gốc chung với tiếng Hán, tồn tại các tầng từ vay mượn từ tiếng Hán. Những nhà nghiên cứu như Vương Ly [17], Haudricourt [6], Đào Duy Anh [18] và các tác giả khác có sử dụng truyền thống âm vị lịch sử của tiếng Hán đã xác định được một tầng cổ xưa của từ vựng Hán từ Triều đại nhà Hán (năm 206 trước Công Nguyên đến 220 sau Công Nguyên), bằng cách xác định các mô hình thay đổi trong các phụ âm đầu và thanh điệu. Những từ như “kind/type”, “paper” và “well”cho thấy mô hình của âm vòm ban đầu và thanh sắc[19] được minh hoạ trong Bảng 1. Những từ như vậy thường được người Việt xem là một phần của chữ Nôm truyền thống, chữ viết biểu đạt tiếng Việt nói, chứ không phải là chữ Hán. Điều này trái ngược với một tầng từ vựng vay mượn sau này từ tiếng Hán thuộc triều đại nhà Đường (năm 618 - 907), được gọi là Hán - Việt, trong đó mỗi từ là một chữ viết Hán (Hán tự) phát âm kiểu Việt.

Bảng 1. Các từ vay mượn Hán - Việt và Hán - Việt cổ (HV) ((Xem Bảng 1 trong bản tiếng Việt dạng pdf theo ở link cuối bài).

Điều quan trọng là phải lưu ý rằng truyền thống ngữ âm học lịch sử Hán phải được tính tới để thiết lập sự chắc chắn về nguồn gốc của các từ cho mượn xa xưa này (14). Nếu không ứng dụng các nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử về các “từ điển gieo vần” tiếng Hán (15) ngược trở lại thời gian khoảng một ngàn năm trăm năm và các nghiên cứu liên quan về các biến thể hiện đại của tiếng Hán cũng như cách đọc chữ Hán của người Nhật và người Triều tiên, thì không thể có được lập luận xác đáng về nguồn gốc ngôn ngữ với tiếng Hán. Trong một số trường hợp, thông qua việc vay mượn lẻ tẻ từ ngữ của một ngôn ngữ khác, các từ riêng biệt có thể thay đổi hình thái âm vị của chúng một cách thường xuyên, song hiện tượng các mô hình tượng hình chung và tự nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần của những thay đổi về âm thì phải được xác định để chứng minh cho một trường hợp khả thi nào đó.

Hiện nay, với sự ứng dụng phương pháp luận ngôn ngữ học lịch sử một cách lô-gic, bất kỳ một lập luận nào cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán và vì thế có quan hệ với hệ ngôn ngữ lớn hơn là Hán - Tây tạng, là không có cơ sở.

4. Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai

Tuyên bố hùng hồn nhất về nguồn gốc Tai của tiếng Việt do Maspéro đưa ra trong một bài viết dài 120 trang đăng trên tạp chí L’École Francoise d’Extrême - Orient (16). Trong bài viết đó, Maspéro chỉ ra khoảng một trăm từ mà ông coi là có cùng nguồn gốc chung giữa tiếng Việt và tiếng Tai-Kadai. Mặc dù ông cũng thừa nhận các từ cùng nguồn gốc Môn-Khme trong tiếng Việt, nhưng ông cho rằng dựa trên số từ nguyên Tai rõ ràng và các đặc tính âm vị chung (như thanh điệu và cơ cấu âm tiết đơn âm là phổ  biến), tiếng Việt thuộc hệ ngôn ngữ Tai. Tuy nhiên, Haudricourt [5] chỉ ra rằng một số lượng đáng kể hình thái mà người ta cho là ngôn ngữ Tai trong thực tế có nguồn gốc từ tiếng Hán.

Hơn nữa, có thể thấy rằng dữ liệu của Maspéro bộc lộ nhiều trường hợp là bằng chứng kém thuyết phục về từ vựng và âm vị, như các trường hợp từ tượng thanh (ví dụ mèo [cat]), hay các hình thái được thấy trong các ngôn ngữ ở khắp vùng Đông Nam Á, như đã được nêu trong phần nói về các công cụ lý thuyết của ngôn ngữ học lịch sử. Một khả năng phức tạp khác là một số tiếng Tai trong lãnh thổ Việt nam lại vay mượn từ tiếng Việt, một khả năng thường không được các học giả trong ngành văn học về ngôn ngữ học lịch sử Đông Nam Á thảo luận tới. Trong tình hình như vậy, các dữ liệu về tiếng Tai vay mượn từ tiếng Việt có thể tạo ra một cảm tưởng sai lầm về từ tiếng Tai mượn từ tiếng Việt. Cuối cùng, sự thiếu vắng vốn từ vựng cơ bản chung, như đại từ, số từ, từ chỉ các bộ phận của cơ thể, hay các danh từ và động từ cơ bản khác khá có sức thuyết phục trong việc không xếp tiếng Việt vào hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Điều đó không có nghĩa là tiếng Việt không giao tiếp với các ngôn ngữ Tai. Một danh mục từ mới được Nguyễn Tài Cẩn [12] tổng hợp. Ông đã sưu tầm được gần hai chục từ có thể được tiếng Việt vay mượn từ tiếng Tai. Việc so sánh các từ này với các phục nguyên từ Tai nguyên thuỷ (17) cho thấy rằng đúng là có một số hình thái có thể là các ứng cử viên nặng ký của các từ vay mượn. Phương pháp tiếp cận tốt nhất có thể là so sánh các hình thái được phục nguyên với những từ này của tiếng Việt với các hình thái tiếng Tai nguyên thuỷ được phục nguyên. Nếu không, các mô hình về sự biến đổi âm không thể đánh giá chính xác được, và vì thế khó tránh các giả thiết sai lầm. Một công trình như vậy đang chờ đợi sự phục nguyên hoàn chỉnh nhóm ngôn ngữ Vietic nguyên thuỷ (tức là nhóm ngôn ngữ bao gồm tiếng Việt, tiếng Mường và khoảng hai chục ngôn ngữ Chứt) (18). Rất nhiều từ vay mượn từ tiếng Tai sang tiếng Việt liên quan đến nông nghiệp (ví dụ: vịt [duck] và đực [male animal]), một tình huống gợi ý về một mối giao lưu ngôn ngữ nhưng không phải là mối giao lưu có ảnh hưởng đáng kể tới tiếng Việt.

Sự giống nhau về hệ thống phân loại giữa tiếng Việt và tiếng Tai, nhất là về thanh điệu, đã được các học giả theo trường phái này cho là biểu hiện của cùng nguồn gốc, hay có thể là kết quả của những giao tiếp lâu dài mà tiếng Việt đã phát triển một số đặc tính của tiếng Tai, nhưng khu vực địa lý của những ngôn ngữ có thanh điệu và biệt lập/đơn âm ở khắp Trung Quốc và lục địa Đông Nam Á rộng lớn tới mức không thể chỉ sử dụng sự có mặt của thanh điệu (mà không dùng các yếu tố khác, nhất là sự tương thích về âm vị) là căn cứ chứng minh nguồn gốc ngôn ngữ. Quả vậy, ngay cả một số ngôn ngữ Môn-Khme và ngôn ngữ Chàm ở vùng Nam Đảo cũng có xu hướng đơn âm và phát triển thanh điệu (19). Việc sử dụng đặc tính hệ thống phân loại theo vùng này để củng cố các lập lụân về nguồn gốc ngôn ngữ tốt nhất cũng rất rủi ro. Dựa trên cơ sở của sự gần gũi về địa lý giữa tiếng Việt và nhóm tiếng Tai và trên cơ sở một số bằng chứng về từ vựng nói trên, có thể nói một cách tương đối chắc chắn rằng hai nghìn năm trước tổ tiên người Việt đã giao lưu với người Tai ở khu vực Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam hiện nay. Phạm Đức Dương đã thảo luận về điều có vẻ là cơ sở ngôn ngữ học – các bằng chứng về từ vựng nói trên - để chứng minh cho sự vay mượn của nền văn hoá lúa nước giữa người Việt và người Tai [20].

Bằng chứng về gien sinh học cũng gợi ra những liên kết chặt chẽ có thể có giữa các nhóm người Việt với người Tai, song các công trình nghiên cứu khác lại chỉ ra các quan hệ giữa các nhóm người Môn-Khme với người Tai-Kadai [21].

Tuy nhiên, nhìn chung, dựa trên các dữ liệu hiện tại và các phương pháp nghiên cứu, nhiều nhất thì mối quan hệ Việt - Tai chỉ có thể được xem là một trong các giao lưu ngôn ngữ vừa phải.

5. Các nguồn gốc Thái Bình Dương: Nhóm Nam Đảo và tiếng Nhật

Cũng tồn tại một nhóm học thuyết liên quan và trùng lặp khác, tất cả đều gợi ý về nguồn gốc Thái Bình Dương của tiếng Việt, kể cả những lập luận về nguồn gốc chung với họ ngôn ngữ vùng Nam Đảo và tiếng Nhật. Keith Taylor, trong phần mở đầu cuốn sách Sự ra đời của Việt Nam của mình, đã viết nhận xét dưới đây, dựa trên cơ sở những phân tích của ông về truyền thống văn hoá và dân gian: ”Những truyền thống huyền thoại về Lạc Long Quân và nguồn gốc của các Vua Hùng cho thấy một nền văn hoá hướng về biển để thích nghi với môi trường lục địa. Nền văn minh đã xuất hiện cùng với một anh hùng văn hoá tới từ vùng biển đã đánh bại quyền lực lục địa bằng cách bắt giữ vợ của kẻ thù của mình và biến người phụ nữ đó thành mẹ của những đứa con thừa tự của mình. Nguồn gốc huyền thoại của các Vua Hùng phản ánh một nền văn hoá biển dựa trên sự lớn dần về chính trị từ các ảnh hưởng của lục địa” [22]. Những người khác đã đưa ra bằng chứng về từ vựng để hỗ trợ cho một khái niệm như vậy.

Những công trình nghiên cứu ban đầu để chứng minh cho mối quan hệ giữa tiếng Việt với ngôn ngữ vùng Nam Đảo là của Nobuhiro Matsumoto, Bình Nguyên Lộc và Nguyễn Ngọc Bích [23-25]. Matsumoto là người đi xa nhất, gợi ra mối quan hệ giữa tiếng Việt và cả tiếng Nhật lẫn tiếng Malai-Pô-lê-ni-zian. Ông đã đưa ra hơn bảy mươi từ gốc có khả năng liên quan giữa tiếng Việt và tiếng Nhật, nhưng chỉ có 9 hình thái để bảo vệ cho quan điểm về mối liên kết giữa tiếng Việt và tiếng vùng Nam Đảo (20). Bằng chứng này bao gồm một số từ vựng có vẻ là cơ bản nhưng không có các hình thái cơ bản hệ thống nào, và không có số đếm, đại từ, từ mô tả các bộ phận cơ thể hay các từ vựng thực sự là cơ bản khác. Một vấn đề khác rất dễ nhận thấy đối với danh mục các từ này là thiếu những tương ứng âm vị, nhất là về khía cạnh thanh điệu và không có sự giải thích hợp lý nào được đưa ra.

Xem xét các dữ liệu từ vựng ở Bảng số 2, lấy từ tài liệu của tác giả Bình Nguyên Lộc [24], “Cằm” là một từ mô tả bộ phận của cơ thể, nhưng về mặt ngữ nghĩa không phải là một bộ phận cơ bản của cơ thể, như từ “mặt” hay “cánh tay”, và cũng thiếu các từ mô tả các bộ phận cơ thể khác. Từ tiếng Việt bạn [friend] là một từ vay mượn tiêu biểu giữa tiếng Hán và tiếng Việt (từ [companion] trong tiếng Hán). Các dạng tương tự về ngữ âm của từ “mật ong” được thấy trong nhiều ngôn ngữ ở khu vực, kể cả tiếng Môn-Khme và tiếng Hán, và không thể dùng để chứng minh cho lập luận về nguồn gốc lịch sử chung hay thậm chí là vay mượn. “Đảo” rõ ràng là một từ mượn từ tiếng Chàm vì nó là một trong số ít từ có hai âm tiết trong tiếng Việt (tức là hai âm tiết không có nghĩa riêng lẻ và đó cũng không phải là một từ láy âm). “Lá” rất có thể là từ Môn-Khme; đây có thể là hình thái Chàm, song có vẻ dễ gây nhầm lẫn (21). Việc loại trừ các ví dụ này làm cho các từ “cây” và “núi” có vẻ là những trường hợp tương tự tình cờ (22).

Một vấn đề khác là các hạng mục từ vựng trong tiếng Ma-lay và tiếng Chàm không nhất quán, trong khi xem xét sự gần nhau tương đối về ngôn ngữ học giữa hai ngôn ngữ này (cả hai ngôn ngữ đều là những phần gắn bó chặt chẽ của tiểu nhánh Ma-lai của ngôn ngữ vùng Nam Đảo), cần phải có thêm nhiều trường hợp nữa. Tiếp theo, như trong trường hợp từ “cây” và “đảo”, khi xem xét về chiều sâu đáng kể của thời gian (hơn hai ngàn năm), những tương ứng về âm thực sự ít rõ ràng hơn, mặc dù vẫn tồn tại các hình mẫu có thể giải thích được và có hệ thống về sự biến đổi ngữ âm. Vì vậy, trong trường hợp nhiều nhất thì bằng chứng này cũng đáng nghi ngờ, và những gì chúng ta có được rất có thể là một tập hợp các từ cùng gốc giả. Cuối cùng, khi xem xét cùng với nhau, những điều này không phải là một tập hợp các từ nguyên tiêu biểu của vùng Nam Đảo, có thể có sức thuyết phục để chứng minh cho lập luận về nguồn gốc ngôn ngữ.

Bảng 2. Các hình thái tiếng Việt - Nhật và Ngôn ngữ Nam Á được đề xuất (Matsumoto) (21) (Xem Bảng 2 trong bản tiếng Việt dạng pdf theo ở link cuối bài).

Theo một phương pháp tiếp cận khác, theo giả thiết về nhóm ngôn ngữ liên họ ở vùng Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Tiểu lục địa Ấn Độ, thì tiếng Việt có thể được xem là gắn với hệ ngôn ngữ vùng Nam Đảo [26]. Bằng chứng rõ ràng nhất về sự gắn bó giữa họ ngôn ngữ vùng Nam Đảo với hệ Nam Á là hình thái ngôn ngữ [27] và bằng chứng về từ vựng thì cực kỳ hiếm [28]. Tiếng Việt chỉ cho thấy các mô hình về hình thái và cấu trúc từ chung, như ta thấy trong các ngôn ngữ thuộc tiểu nhánh Vietic rất gần gũi. Các mô hình này chỉ ra những dấu vết còn lại của tiếp đầu ngữ /pa-/ của động từ, một tiếp đầu ngữ phổ biến trong nhiều ngôn ngữ vùng Nam Đảo và Môn-Khme. Bằng chứng về từ vựng cũng rất hiếm hoi, chỉ có vài khả năng là các từ “chó”, “mắt”, “cá” và vài từ khác nữa. Ngay dù giả thiết này đứng vững được, thì quan hệ trực tiếp nhất vẫn là giữ tiếng Việt với tiếng Môn-Khme, chứ không phải là với ngôn ngữ vùng Nam Đảo.

Khi xem xét vị trí địa lý của ngôn ngữ Việt, thì quan điểm cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc từ vùng đảo Thái Bình Dương có thể đúng. Bờ biển phía Bắc Việt Nam có thể được những người du hành từ vùng Nam Đảo tiếp cận, và theo các học thuyết hiện tại [29] thì những người này đi từ Nam Trung Quốc sang Đài Loan và tiến xuống phía Nam, tới tận Phi-lippin và quần đảo In-đô-nê-xia. Rõ ràng người Chàm là tổ tiên của làn sóng di cư vĩ đại này. Họ đã tới bờ biển phía nam Việt Nam khoảng hai ngàn năm trước và người Việt là láng giềng liền kề của họ ở phía Bắc Đế chế Chăm-pa cho đến khi Đế chế này rơi vào tay người Việt hồi thế kỷ 15. Có thể đã có giao tiếp về ngôn ngữ giữa người Việt và người Chàm, nhưng người Việt đã có mối quan hệ chính trị không thân thiện với những người láng giềng của mình ở phía Nam. Theo các dữ liệu về ngôn ngữ học, sự giao tiếp giữa họ rất ít; chỉ có vài ví dụ về các từ vay mượn từ tiếng Chàm hay ngôn ngữ vùng Nam Đảo được đưa ra một cách chắc chắn (23). Sự thiếu vắng một cơ sở chắc chắn về từ vựng cơ bản và các mô hình về sự tương ứng âm vị làm cho lập luận rằng tiếng Việt có nguồn gốc từ họ ngôn ngữ vùng Nam Đảo trở nên rất bấp bênh.

6. Ngôn ngữ vùng Nam Á và ngôn ngữ Môn- Khme

Hơn 150 ngôn ngữ thuộc Liên họ ngôn ngữ vùng Nam Á được trải rộng khắp vùng lục địa Đông Nam Á, từ Việt Nam tới tỉnh Vân Nam Trung Quốc, xuống tới vùng núi của bán đảo Ma-lai-xia, và thậm chí sang cả đông Ấn Độ, mà vùng này là lãnh địa của tiểu nhánh Munda của liên họ ngôn ngữ vùng Nam Á. Bằng chứng về từ vựng và âm vị cho thấy một cách chắc chắn rằng có một mối quan hệ giữa tiếng Việt với liên họ ngôn ngữ Nam Á. Một số sưu tập ban đầu về khía cạnh này của thuật ngữ tiếng Việt gồm của Maspéro (mặc dù ông ta lập luận nguồn gốc tiếng Việt là tiếng Tai), Gordon Luce, David Thomas với Robert Headley, và Franklin Huffman [3,30-33]. Sử dụng phương pháp luận thống kê từ vựng, Thomas và Headley cho thấy rằng tỷ lệ từ vựng cơ bản chung giữa tiếng Việt và tiếng Môn-Khme là 25 phần trăm, tương tự với tỷ lệ giữa các nhánh của ngôn ngữ Môn-Khme (khoảng 25 đến 35 phần trăm). Các công trình nghiên cứu cung cấp bằng chứng về sự tương xứng về âm vị gồm cả tác phẩm của Haudricourt, Ferlus, Gage, Diffloth và Nguyễn Tài Cẩn [2,5,7,9,12]. Trong một cuốn sách dành toàn bộ cho đề tài này, Ferlus và Nguyễn Tài Cẩn chỉ ra rằng con đường phát triển âm vị của tiếng Việt đã trải qua hơn hai nghìn năm từ gốc Môn-Khme của nó. Từ các nguồn khác nhau này, ba trăm từ nguyên thuộc hệ Nam Á có thể được xác định trong tiếng Việt, kể từ thời tiền - liên họ Nam Á. Cũng có thể xác định được vốn từ vựng thuộc các mức độ thấp hơn và các tiểu nhánh (ví dụ Môn-Khme, Đông Môn-Khme v.v) do đó có thể đưa ra một kịch bản ngôn ngữ học lịch sử hoàn chỉnh hơn về quá trình di cư dần dần của người Môn-Khme ở khắp vùng Đông Nam Á[34].

Cơ sở từ vựng học liên kết tiếng Việt với tiếng Môn-Khme gồm vốn từ vựng cơ bản chung chung về mặt ngữ nghĩa, và điều quan trọng là đó chính là vốn từ vựng liên kết giữa các ngôn ngữ khác với các tiểu nhánh của các ngôn ngữ Môn-Khme. Danh sách gồm một trăm từ mà Huffman đưa ra năm 1977 cho thấy vài chục (24) từ có thể là từ cùng gốc Việt/Khme với nhiều tương ứng về âm với hàng chục ngôn ngữ Môn-Khme khác. Điều mà bằng chứng này cho thấy là (1) vốn từ cơ bản, (2) sự tương ứng về âm vị, và (3) sự lan toả của vốn từ vựng này trong nội tại các ngôn ngữ cũng như giữa các tiểu nhánh của ngôn ngữ Môn-Khme. Điểm thứ ba làm cho các dữ liệu này trở nên có ý nghĩa về mặt phương pháp luận. Ví dụ về các vấn đề này được trình bày trong Bảng 3 (chữ viết từ các ấn phẩm gốc được giữa nguyên), gồm các tiếng Rục, một thổ ngữ nói Vietic ở tỉnh Quảng Bình[11]; tiếng Pa-cô ở tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị [35]; tiếng Mông ở Thái Lan và Miến  Điện [30]; và tiếng Riang cũng ở Miến Điện [30]. Những từ không có trong dữ liệu được đánh dấu bằng ký hiệu “x”. Điều quan trọng là phải xem xét thực tế rằng các ngôn ngữ Môn-Khme khác bắt nguồn từ bốn tiểu nhánh
khác nhau của Môn-Khme và bao phủ phạm vi địa lý rộng lớn, song tất cả đều có các từ nguyên Môn-Khme rất phổ biến này, một thực tế củng cố thêm việc gộp tiếng Việt vào họ Môn-Khme và làm suy yếu khả năng của một tình huống vay mượn nhiều về ngôn ngữ.

Bảng 3. Bằng chứng so sánh tiếng Việt và tiếng Môn-Khme (24) (Xem Bảng 3 trong bản tiếng Việt dạng pdf theo ở link cuối bài).

Nghiên cứu danh mục các từ cùng gốc này cho thấy các mô hình tiêu biểu của sự tương xứng về âm vị giữa tiếng Việt và các tiếng Môn-Khme khác. Ferlus mô tả bằng chứng về tình trạng các cụm phụ âm Môn-Khme giảm từ hai ba âm xuống các âm quặt lưỡi trong tiếng Việt (ví dụ âm “tr”, “s” và “f” trong tiếng Việt) [7]. Một số loại âm điệu trong tiếng Việt tương ứng với một số âm tiết cuối cùng trong tiếng Môn-Khme, như Haudricourt đã nêu trong một bài trình bày của mình tại hội thảo bảo vệ giả thiết của mình về nguồn gốc của thanh điệu trong tiếng Việt[5]. Ví dụ về các lập luận này được trình bày ở Bảng 4, gồm các thể loại tương ứng minh hoạ cho các trường hợp như vậy trong Bảng 3(25).

Bảng 4. Tương ứng âm vị giữa tiếng Việt và tiếng Môn-Khme ((Xem Bảng 4 trong bản tiếng Việt dạng pdf theo ở link cuối bài).

Chất lượng của vốn từ vựng cơ bản Môn-Khme trong tiếng Việt cũng cao. Ví dụ, ngược với từ có thể là vay mượn từ tiếng Tai gà [chicken], hay công [peacock] từ tiếng Môn- Khme, chúng ta sẽ thấy từ ít tiêu biểu nhất về mặt ngữ nghĩa, và phổ thông hơn là từ chim [bird]. Trong số các từ có gốc Môn-Khme trong tiếng Việt, chúng ta cũng sẽ thấy các từ chỉ con vật thực sự cơ bản như từ chó [dog], cá [fish], và rắn [snake], đối ngược với những chủng loại cụ thể hơn của các động vật này. Về các bộ phận của cơ thể, chúng ta thấy các từ chân, [leg/foot], tay [arm/hand], tai [ear] và mũi [nose], là những từ có liên hệ trong toàn bộ hệ Môn- Khme và thậm chí vươn xa tới tận các ngôn ngữ Munda của miền Đông Ấn Độ. Tuy có ít ví dụ hơn, nhưng có các động từ Môn- Khme cơ bản, như từ ngồi [to sit], mắng [to listen], và chết [to die]. David Thomas đã chỉ ra rằng tất cả số đếm từ một đến mười trong tiếng Việt đều thuộc họ Môn-Khme hay một tiểu nhóm của Môn-Khme (26). Mặc dù hệ thống đại từ trong tiếng Việt phần lớn được thay thế bằng một hệ thống các từ có điều kiện xã hội hầu hết bắt nguồn từ các từ có quan hệ gia đình, các từ chỉ sự thân mật/thông tục như mày [you] và nó [he/she/it] là các từ thuộc vùng Nam Đảo [36], chắc chắn chịu tác động của quá trình tái cấu trúc toàn hộ các từ về địa chỉ và sự tra cứu trong tiếng Việt [37].

Những tương ứng về âm vị của vốn từ vựng cơ bản nói trên là khá nhiều. Gage đã liệt kê ra hàng chục trường hợp riêng lẻ về sự tương ứng âm vị giữa các từ trong tiếng Việt và tiếng Môn-Khme (27). Các trường hợp này rơi vào một số chủng loại mà nó chính là loại hỗ trợ cần thiết của bằng chứng về các mối quan hệ chứ không chỉ là các trường hợp giống nhau ngẫu nhiên. Những tương ứng về âm vị này cung cấp không chỉ bằng chứng để liên kết tiếng Việt với tiếng Môn-Khme mà còn là một phương tiện để phục nguyên tiếng Việt ở các giai đoạn cách đây vài thế kỷ và sớm hơn nữa [2]. Một số tiếp đầu ngữ sơ khai của tiếng Môn-Khme cũng có thể được phục nguyên trong tiếng Việt [7,12].

Những dữ liệu ngôn ngữ học về những quan hệ ngôn ngữ rất gần nhau song cực kỳ thận trọng của tiếng Việt, các ngôn ngữ vùng cao Chứt [38] (như tiếng Rục trong Bảng 3) ở vùng cao nguyên Bắc Trung bộ Việt Nam và vùng biên giới Việt Lào (28) đưa ra bằng chứng mà nó làm thay đổi các giả thiết trước đó về các giai đoạn và thời điểm của một số phát triển âm vị trong tiếng Việt. Thực tế rằng tiếng Việt có các nhóm phụ âm là không thể tranh cãi được vì một số thổ ngữ đã có các nhóm phụ âm đến tận thế kỷ hai mươi, và chúng thể hiện rất rõ ràng trong tài liệu viết từ thế kỷ mười bảy (như trong từ điển năm 1651 của de Rhodes) (29). Khó chứng minh được khi nào các tiền âm tiết chấm dứt tồn tại trong tiếng Việt, mặc dù sự tồn tại của nó trong các ngôn ngữ Chứt rất gần gũi với tiếng Việt cho thấy rằng việc này đã xảy ra cách đây vài thế kỷ hoặc sớm hơn nữa. Sự hình thành cấu trúc hai âm tiết trong tiếng Việt chỉ có khả năng diễn ra trong kho từ vựng Hán - Việt vào triều đại nhà Minh (1368 – 1644), trong đó hai chữ viết, và như vậy là hai âm tiết, được sử dụng để biểu đạt một số từ nhất định trong tiếng Việt thời kỳ đó, và điều này có nhiều khả năng là cách thức đại diện cho các nhóm phụ âm [3]. Khi xem xét các giai đoạn xa xưa của âm vị tiếng Việt, sự giống nhau hiện tại giữa tiếng Việt với tiếng Tai hay tiếng Hán được xem xét theo một cách mới. Giai đoạn hiện đại của cấu trúc âm vị tiếng Việt chỉ là điểm kết thúc của một tiến trình đơn âm hoá kéo dài mà nguyên nhân của nó có thể là sự giảm bớt nội tại tiếp theo các xu hướng chữ viết cũng như sự hội nhập dần dần của hàng trăm từ đơn âm tiếng Hán trong hơn hai ngàn năm. Trong chủng loại này có hai thông tin bổ sung có thể làm nổi bật nguồn gốc Môn- Khme của tiếng Việt. Thứ nhất, tiếng Việt có bằngchứng cả về các nhóm đầu từ và các tiếp đầu ngữ hay trung tố, mà một số tương ứng với các hình thể ngôn ngữ Môn-Khme [39]. Những bằng chứng như vậy gần như bị thất thoát trong quá trình đơn âm hoá. Thứ hai, các mô hình của các từ láy, trong đó một âm tiết đơn nhất được lặp lại một phần nhưng thường với một âm thay đổi, là một khía cạnh gợi ra sự giống nhau về chữ viết với các ngôn ngữ Môn-Khme. Đúng ra, trường hợp này xẩy ra với các ngôn ngữ Môn-Khme được sử dụng để nói bên trong hay sát với lãnh thổ tiếng Việt nhiều hơn là các vùng xa về địa lý, và điều đó gợi ra một loại ảnh hưởng vùng và không nhất thiết là nguồn gốc ngôn ngữ [7]. Có lẽ hiện tượng láy nhiều từ có âm vị tách biệt, một đặc điểm có trong tiếng Việt và tiếng Môn-Khme Pa-cô, một đặc tính ngôn ngữ học khác thường và nổi bật, là có sức thuyết phục hơn (30).

7. Tóm tắt và so sánh các giả thiết

Tới thời điểm này, chúng ta có thể so sánh các giả thiết khác nhau về sức thuyết phục của các lập luận ngôn ngữ học và mức độ khả thi của các kịch bản nhân chủng học - lịch sử.

Bảng 5 đưa ra sự đánh giá của tác giả về chất lượng của các bằng chứng ngôn ngữ học đối với các nhóm ngôn ngữ nguồn khác nhau. Chỉ có ngôn ngữ Môn-Khme được chứng minh là có chung kho từ vựng nòng cốt cơ bản với tiếng Việt, với lượng tương ứng âm vị bất qui tắc đáng kể, trong khi với các nhóm ngôn ngữ khác thì không có hiện tượng như vậy. Để bác bỏ vốn từ vựng cơ bản Môn-Khme trong tiếng Việt, cần phải loại bỏ phương pháp luận so sánh cơ bản, mà phương pháp này, dù không hoàn hảo, nhưng rất quan trọng cho việc sưu tầm thêm các bằng chứng về ngữ nghĩa. Về những vấn đề liên quan đến âm vị và chữ viết nói chung, giữa tất cả các nhóm ngôn ngữ đều có sự trùng lặp, và có lẽ đây là nguồn gốc lớn nhất của tình trạng nhầm lẫn trong quá trình nghiên cứu này. Có lẽ tốt hơn là coi các đặc điểm ngôn ngữ này ở vùng ngôn ngữ Đông Nam Á là kết quả của quá trình giao lưu ngôn ngữ lâu dài chứ không phải là có chung nguồn gốc ngôn ngữ.

Bảng 5. Chất lượng các bằng chứng về mối quan hệ ngôn ngữ học giữa tiếng Việt với các họ ngôn ngữ khác ((Xem Bảng 5 trong bản tiếng Việt dạng pdf theo ở link cuối bài).

Về các kịch bản giao lưu giữa các nhóm dân tộc, để hai giả thiết về nguồn gốc Tai-Kadai hay nhóm Nam Đảo có thể đứng vững, có thể có một thời gian trong đó tổ tiên người Việt hiện đại đã ở trong một vị thế phụ thuộc về mặt xã hội. Điều đó có nghĩa có thể có trường hợp một nhóm người nói tiếng Hán, Tai hay ngôn ngữ vùng Nam Đảo chịu ảnh hưởng thông qua tiếp xúc xã hội với ngôn ngữ Môn-Khme hay một nhóm ngôn ngữ của hệ này nhiều đến mức những người sử dụng ngôn ngữ này vay mượn hầu hết vốn từ vựng cơ bản của họ trước khi chịu ảnh hưởng của tiếng Hán. Tất nhiên, không thể hoàn toàn bác bỏ lập luận rằng ba nghìn năm trước đây, tiếng Việt là tiếng Tai, tiếng Nam Đảo hay tiếng Hán mà sau này phát triển các đặc điểm ngôn ngữ của tiếng Môn-Khme do những giao tiếp mạnh vẽ về ngôn ngữ, song trường hợp này có thể xảy ra với bất kỳ ngôn ngữ nào trong khu vực. Không có thêm bằng chứng nào nữa, thì các giả định như vậy rất mang tính phỏng đoán. Trong khi các giả thiết khác không thể bị bác bỏ hoàn toàn, thì bằng cíưng tích cực mạnh mẽ nhất vẫn là tiếng Việt có nguồn gốc từ vùng Nam Đảo. Trong thực tế, nghiên cứu ở Đông Nam Á cho thấy có
sự tương đồng đáng kể giữa người bản địa Việt và Ma-lai-xia (người Orang Asli), mà ngôn ngữ của họ là Austro- Asiatic - một thực tế rất tương đồng với giả thiết nêu trên (31).

Qua việc xem xét các thể loại từ vựng và nguồn gốc nhóm ngôn ngữ của chúng, một bức tranh lịch sử đơn giản và rõ ràng xuất hiện. Một nhóm người nói một loại tiếng Môn-Khme, những người rất có thể đã sống du canh du cư, như nhiều nhóm Môn-Khme khác, và họ đã phát triển một nền văn minh tinh vi hơn, tiếp xúc với những người nói tiếng Tai ở vùng là phía Bắc của Việt Nam hiện nay. Nhóm Vietic lấy khái niệm từ ngôn ngữ Tai và kết hợp các từ với các hoạt động lúa nước và chăn nuôi, mà các hoạt động này có thể đã cho phép nền văn minh Việt buổi sơ khai phát triển thêm. Tuy nhiên, không có vẻ có bằng chứng về sự giao tiếp sâu rộng với nhóm ngôn ngữ Tai, nhất là việc làm thay đổi cấu trúc ngôn ngữ của tiếng Việt, mà chỉ là một quá trình chung của sự đồng nhất ngôn ngữ trong đó các ngôn ngữ thuộc nhiều nguồn gốc trong vùng có thể trở nên giống nhau về loại hình. Những nét tương tự như vậy về ngôn ngữ học giữa các ngôn ngữ có vẻ là kết quả của hàng nghìn năm giao tiếp giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau. Tiếp theo là sự tiếp xúc giữ tiếng Việt và tiếng Hán. Nhất là trong vài thế kỷ qua, thuật ngữ tiếng Việt đã bão hoà từ vựng Hán- Việt và dẫn đến những mô hình hình thành âm vị, hình thái học và từ ngữ tương tự như tiếng Trung Quốc hiện đại (32). Về cơ bản, tiếng Việt là một ngôn ngữ Môn- Khme với vài từ vay mượn từ tiếng Tai và một tầng ảnh hưởng sâu sắc từ vựng và ít nhiều cả cấu trúc tiếng Hán - một ý kiến đơn giản nhưng hợp lý trên cơ sở những dữ liệu và các công cụ phân tích hiện có.
______

(1) Ví dụ Encyclopedia Britannica, MSN Encarta và từ điển bách khoa toàn thư trên mạng internet tại địa chỉ:
www.Wikipedia.org.
(2) Để có thêm số liệu về các ngôn ngữ Môn-Khme, số người sử dụng các ngôn ngữ này và vị trí địa lý của họ, xem địa chỉ website của Viện Ngôn ngữ học mùa Hè, cơ sở dữ liệu “Ethnologue” (www.ethnologue.com) một tập hợp khổng lồ, mặc dù phần nào vẫn chưa hoàn chỉnh, các ngôn ngữ trên thế giới. Để đọc thêm các nghiên cứu ngôn ngữ học về hệ ngôn ngữ Môn-Khme và các tiểu nhánh, hãy truy cập trang web của Paul Sidwell (Trường Đại học Tổng hợp quốc gia Ô-stơ-rây-lia), http://www.anu.edu.au/%7Eu9907217/languages/languages.html (truy cập ngày 24/5/2006).
(3) Từ “Tai-Kadai” nói tới ba nhánh của một họ ngôn ngữ hoàn chỉnh, gồm Kam-Tai, Kadai và Htai. Trong bài viết này, từ được sử dụng chung là “Tai”, mô tả một tiểu nhóm thuộc tiểu nhóm Kam-Tai. Không nên nhầm lẫn “Tai” với “Thái” (có thêm chữ h), là ngôn ngữ quốc gia của Thái -lan và chỉ là một trong 50 ngôn ngữ Tai.
(4) Từ ‘Hán” trong bài viết này nói tới một nhóm ngôn ngữ có liên quan với nhau - một vài nhóm lớn (ví dụ: tiếng Trung quốc phổ thông, tiếng Yue, Min v.v.) mà mỗi một thứ tiếng có hàng chục thổ ngữ hoặc các biến thể địa phương - chứ không phải để chỉ một biến thể nhất định của tiếng Hán.
(5) Thực ra đây là một ý kiến mang tính dự đoán, song có vẻ là ý kiến chung của các nhà ngôn ngữ tại Viện Ngôn ngữ học Hà nội và hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ở các trường đại học khác của Việt Nam. Để xem các ý kiến về chủ đề này, hãy truy cập vào trang web của Viện Ngôn ngữ học Hà Nội (www.ngonngu.net) trong đó nêu sự chấp nhận về nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt.
(6) Trong một bài báo của mình viết năm 1954 “Nguồn gốc thanh trong tiếng Việt” Haudricourt cũng đưa ra giả thiết về nguồn gốc của các thanh điệu trong tiếng Việt, một học thuyết có tác động lớn đến công tác nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử về các ngôn ngữ Đông và Đông Nam Á.
(7) Một khác biệt quan trọng giữa ngành khảo cổ tự nhiên và ngôn ngữ học lịch sử là trong khảo cố, tuổi của các cổ vật được đánh giá bằng niên đại các – bon. Ngôn ngữ học lịch sử suy cho cùng là một ngành không có công cụ chẩn đoán. Công cụ đánh dấu niên đại khách quan gần nhất là các lưu trữ về chữ viết, nhưng chỉ trong trường hợp niên đại của các tài liệu này có thể xác minh được.
(8) Từ điển từ nguyên và từ đồng nghĩa Hán – Tây Tạng, phần “Giới thiệu” http://stedt.berkeley.edu/ (accessed May 24, 2006).
(9) Cụm từ “more useful - hữu ích hơn” ở đây nên được hiểu với nghĩa tương đối. Bởi vấn đề là sức nặng của bằng chứng, nên rất có thể là một số từ vựng phần nào ít cơ bản hơn lại có thể là có cùng nguồn gốc. Các ý kiến cực đoan về bất kỳ phía nào cũng không hợp lý, nhưng chúng tôi hy vọng rằng việc tích luỹ các chi tiết đủ để bảo vệ một quan điểm nào đó.
(10) Nói chính xác hơn, tiếng Hán là một nhóm ngôn ngữ. Hai người mà nói những phương ngữ Trung Quốc khác, ví dụ tiếng Bắc kinh và tiếng Quảng đông, không thể hiểu nhau trừ khi họ có học phương ngữ Trung Quốc khác.
(11) Ví dụ là muôn /ten thousand/, từ Hán cổ của chữ Hán- Việt vạn và y /he-she/, chữ Hán.
(12) Những bằng chứng như vậy là kết quả của việc so sánh với nhiều ngôn ngữ Môn-Khme. Trong một số trường hợp, những từ như “fish – cá” và “leaf – lá” thậm chí có quan hệ rộng lớn hơn với các nhóm ngôn ngữ khác trong vùng (“fish – các” trong ngôn ngữ vùng Nam Đảo, và “leaf – cá” trong cả ngôn ngữ Hán – Tây tạng và ngôn ngữ vùng Nam Đảo), nhưng chỉ những nghiên cứu có tính chất hệ thống áp dụng phương pháp phê phán mạnh mẽ mới có thể xác định được điều này một cách chắc chắn hơn. Hơn nữa, một số lượng ít ỏi từ có thể là cùng gốc sẽ không đủ cơ sở để xác định liệu vấn đề này là sự giao tiếp về ngôn ngữ hay nguồn gốc ngôn ngữ chung. Laurent Sagart thậm chí đưa ra quan điểm về sự quan hệ lâu đời giữa các ngôn ngữ Hán- Tây tạng, Nam Á và Tai-Kadai.
(13) Jerry Norman đã đưa ra một danh sách rất hay về các từ nguyên Hán – Tây Tạng; không một từ nào trong danh sách này có vẻ có từ cùng gốc tương ứng trong vốn từ vựng bản địa của tiếng Việt.
(14) Công trình ngôn ngữ học lịch sử hoàn chỉnh nhất về Hán - Việt, với ý kiến thảo luận đầy đủ về truyền thống âm vị lịch sử của tiếng Hán.
(15) Các từ điển gieo vần cho thấy các chủng loại phát âm chữ Hán thuộc triều đại Đường và Song. Sự nhận biết chính xác về các âm được trình bày có thể được suy ra chỉ bằng việc so sánh những chủng loại này với các biến thể hiện đại của tiếng Hán, một đề tài nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử từ cuối những năm 1800.
(16) Maspéro, “Études sur la Phonétique Historique de la Langue Annamite: Les Initiales.” Một công trình nghiên cứu ít được trích dẫn hơn chứa đựng điều mà tác giả coi là các từ cùng gốc giữa tiếng Việt và một vài tiếng Tai khác.
(17) Những từ vay mượn từ ngôn ngữ Tai trong tiếng Việt do Nguyễn Tài Cẩn đưa ra được so sánh với “Proto – Tai – O-Matric” trực tuyến, một cơ sở dữ liệu các từ proto-Tai được tái hiện.
(18) Như đã được thảo luận bởi Nguyễn Tài Cẩn trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt.
(19) Để xem các ý kiến thảo luận tương tự.
(20) Khối lượng lớn các từ cùng gốc Nhật - Việt này được một người sử dụng tiếng Nhật đưa ra có thể là một dấu hiệu của khả năng sáng tạo để các nhà ngôn ngữ học nhận ra những mô hình trong các ngôn ngữ mà họ hiểu biết sâu sắc nhất, chứ không phải là dấu hiệu của các kiến thức có ý nghĩa. Khả năng tìm ra các từ có âm tương tự chắc chắn được củng cố khi số các âm vị có thể tìm thấy ít hơn, như trong trường hợp tiếng Nhật, một ngôn ngữ chỉ có năm nguyên âm, ngược với tiếng Việt có tới mười tám nguyên âm, tuỳ thuộc vào sự biến thể giữa các vùng.
(21) Về giả thiết mà nói thì từ Chàm có thể là từ vay mượn từ Môn-Khme, khi người Chàm có giao tiếp sâu rộng với người Môn-Khme ở vùng Trung bộ Việt Nam trong vài thế kỷ qua.
(22) Một khía cạnh nữa cần xem xét là âm tiết nào trong một từ hai âm tiết bị mất đi. Ví dụ trong các ngôn ngữ Môn-Khme và Chàm, trọng âm trong các từ hai âm tiết rơi vào âm tiết thứ hai, do đó làm cho âm tiết đầu chứ không phải là âm tiết cuối cùng bị mất đi. Giả sử tiếng Việt theo mô hình này, như bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử chỉ ra, thì những từ như cây sẽ không giữ được âm tiết đầu tiên.
(23) Đã thảo luận ba chục từ gốc vùng Nam Đảo trong tiếng Việt, song phần lớn các từ này phải bị loại bỏ vì nhiều trong số từ đó bắt nguồn từ nhiều nhóm ngôn ngữ hoặc hầu hết số từ đó đều có vấn đề về âm vị khi tái hiện.
(24) Theo một phương pháp tiếp cận khác, theo giả thiết về nhóm ngôn ngữ liên họ ở vùng Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Tiểu lục địa Ấn Độ, thì tiếng Việt có thể được xem là gắn với hệ ngôn ngữ vùng Nam Đảo [26].
(25) Vẫn còn một số nghi ngờ về các dữ liệu. Tại sao trong tiếng Việt lại có những từ với thanh sắc mà không có phụ âm tắc cuối cùng (như từ bốn [four] và lá [leaf]), như Haudricourt đã nêu trong tài liệu “Nguồn gốc thanh điệu trong tiếng Việt”? Tại sao một số âm tắc đầu từ trong ngôn ngữ Môn-Khme cũng tắc trong tiếng Việt, nhưng một số âm khác lại là âm mũi (như từ nước [water] và nó [it])? Yếu tố nào đã dẫn tới việc giảm các cụm âm thành các phụ âm quặt lưỡi (ví dụ âm “r”, “s” và “tr” trong tiếng Việt), trái ngược với các khả năng khác, nhất là vì các âm quặt lưỡi hiếm thấy trong các ngôn ngữ lân cận như Môn-Khme, Tai và Chàm? Trong cuốn “ Tiếng cổ họng của ngôn ngữ Nam Á cổ”, Diffloth đã đưa ra các dữ liệu mà nó có thể giải thích cho câu hỏi đầu tiên và cũng có thể không. Câu hỏi thứ hai đòi hỏi phải có thêm nghiên cứu. Câu hỏi thứ ba chưa được giải thích một cách đầy đủ, mặc dù tình trạng vay mượn nhiều và sau đó là sự giao tiếp với tiếng Hán, mà nó đã được tái hiện với các âm quặt lưỡi (chỉ có tiếng Trung ở phía bắc lục địa mới còn những âm quặt lưỡi này) có thể là một yếu tố.
(26) Đây là một dạng cổ hơn, ít được sử dụng hơn là dạng tiêu chuẩn nghe.
(27) Quá trình tái cấu trúc chủ yếu do các giao tiếp với tiếng Hán, từ đó nhiều từ tương tự được vay mượn, mặc dù những từ này phát triển một số chức năng không thấy trong tiếng Hán.
(28) Từ “Chứt” là một thổ ngữ được sử dụng trong Giáo trình về lịch sử ngữ âm tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn, và vì vậy toàn bộ nhóm ngôn ngữ Vietic bao gồm các tiểu nhánh ngôn ngữ Việt-Mường và Chứt. Tôi dùng từ “Vietic thứ yếu” để nói tới nhóm ngôn ngữ đó.
(29) Ví dụ xem dữ liệu về tiếng Rục để thấy các ý kiến thảo luận tại sao một dữ liệu như vậy lại không đưa ra các mối quan hệ.
(30) Để xem các ý kiến thảo luận về các mô hình này.
(31) Tài liệu trình bày tại Hội nghị hàng năm lần thứ 9.
(32) Tuy nhiên, tôi lập luận rằng (a) nhiều cấu trúc ngôn ngữ của tiếng Việt hiện đại có thể do các quá trình ngôn ngữ tự nhiên chứ không phải do giao tiếp với tiếng Hán, (b) tiếng Hán đóng một vai trò tương đối thứ yếu trong các khía cạnh phi từ vựng của tiếng Việt, và (c) nhiều thay đổi mà nó làm cho tiếng Việt giống với tiếng Hán về mặt cấu trúc diễn ra trong vài thế kỷ qua chứ không phải trong thời kỳ chuyển từ triều đại Hán sang triều đại nhà Đường.

Tài liệu tham khảo

[1] Dang Nghiem Van, Chu Thai Son, Luu Hung, The Ethnic Minorities in Vietnam, Foreign Languages Publishing House, Hà Nội, 1984.
[2] William W. Gage, “Vietnamese in Mon-Khmer Perspective,” Southeast Asian Linguistics, Presented to André-G. Haudricourt, eds. S. Ratankul, D. Thomas, S. Premisirat, Mahidol University, Bangkok, 1985.
[3] Henri Maspéro, “Études sur la Phonétique Historique de la Langue Annamite: Les Initiales,” Bulletin de l’École Françoise d’Extrême-Orient 12 (1912) 1-127.
[4] André G. Haudricourt, “La Place du Vietnamien dans les Langues Austroasiatiques],” Bulletin de la Societe de Paris 49, 1 (1953) 122-128.
[5] André G. Haudricourt, “De l’Origine des Tons en Vietnamien,” Journal Asiatique 242 (1954) 69-82.
[6] André G. Haudricourt, “Comment Reconstruire le Chinois Archaïque,” Word 10, 2-3 (1955) 351-364.
[7] Michel Ferlus, “Vietnamien et Proto-Viet- Muong,” Asia Sud Est un Monde Insulindien 6, 4 (1975) 21-55.
[8] Michel Ferlus, Sự biến hóa của các âm tắc giữa (obstruentes mediales) trong tiếng Việt, Ngôn Ngữ Học 2 (1981) 1-21.
[9] Gérard Diffloth, “Proto-Austroasiatic Creaky Voice,” Mon-Khmer Studies 15 (1989) 139-154.
[10] Gérard Diffloth, “Vietnamese as a Mon-Khmer Language,” Papers from the First Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, eds. Martha Ratliff, Eric Schiller (Tempe: Arizona State University, 1990), 125-139.
[11] Nguyễn Văn Lợi, Tiếng Rục, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993.
[12] Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1995.
[13] Hans Heinrich Hock, Principles of Historical Linguistics, Mouton de Gruyter, New York, 1991.
[14] Terry Crowley, An Introduction to Historical Linguistics, Oxford University Press, New York, 1992.
[15] Sarah Grey Thomason and Terrence Kaufman, Language Contact, Creolization, and Genetic Linguistics, University of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1988.
[16] Mark J. Alves, “What’s So Chinese about Vietnamese?” Papers from the Ninth Annual Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, ed. Graham W. Thurgood (Tempe: Arizona State University, 2001.
[17] Wang Li, “Hanyueyu yanjiu [Research on Sino- Vietnamese],” Lingnan Xuebao 9, 1 (1948) 1-96.
[18] Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến [Chu Nom: Origins, Formation, and
Transformations], NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1979.
[19] Mei Tsu-Lin, “Tones and Prosody in Middle Chinese and the Origin of the Rising Tone,” Harvard Journal of Asiatic Studies 30 (1970) 86-110, specifically 95-96.
[20] Pham Đức Dương, Cội Nguồn Mô hình Văn Hoá-Xã hội Lúa nước của người Việt qua cứ liệu ngôn ngữ, Nghiên Cứu Lịch Sử 5 (1982) 43-52.
[21] Luigi L. Cavalli-Sforza, The History and Geography of Human Genes, NJ: Princeton University Press, Princeton, 1994, 225, 234.
[22] Keith W. Taylor, Birth of Vietnam, University of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1983, 1.
[23] Nobuhiro Matsumoto, Le Japonais et les langues Austroasiatiques: Etude de vocabulaire compare, P. Geuthner, Paris, 1928);
[24] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, (Bách Bộc, Sài Gòn, 1971; repr., CA: Xuân Thu, Los Alamitos, 1987).
[25] Nguyễn Ngọc Bích, “Tiếng Việt, Tiếng Nhật, và họ Mã Lai ÐaÐảo,” Tuyển Tập Ngôn Ngữ và Văn Học Việt-Nam 2, Dòng Viện, San Jose, 1994, 437-480.
[26] Pater Wilhelm Schmidt, Die Mon-Khmer- Volker, Druck und Verlag von Friedrich Vieweg und Sohn, Braunschweig, 1906.
[27] Lawrence A. Reid, Morphological Evidence for Austric, Oceanic Linguistics 33, 2 (1994) 323-344.
[28] Gérard Diffloth, “The Lexical Evidence for Austric, So Far,” Oceanic Linguistics 33, 2 (1994) 309321.
[29] Robert Blust, “Beyond the Austronesian Homeland: The Austric Hypothesis and Its Implications for Archaeology,” Prehistoric Settlement of the Pacific, ed. W. Goodenough, Philadelphia, Transactions of the American Philosophical Society 86, 5 (1996): 117-140).
[30] Gordon H. Luce, “Danaw, a Dying Austroasiatic Language,” Lingua 14 (1965) 98-129;
[31] David D. Thomas, Robert K. Headley, Jr., “More on Mon-Khmer Subgroupings,” Lingua 25 (1970) 398-418.
[32] Franklin E. Huffman, “The Relevance of Lexicostatistics to Mon-Khmer Languages,” Lingua 43 (1976) 171-198;
[33] Franklin Huffman, “An Examination of Lexical Correspondences between Vietnamese and Some Other Austroasiatic Languages,” Lingua 43 (1977) 171-198.
[34] Mark Alves, “The Vieto-Katuic Hypothesis: Lexical Evidence,” SEALS XV: Papers from the 15th Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, ed. Paul Sidwell, The Australian National University, Research School of Pacific and Asian Studies, Pacific Linguistics Publishers, Canberra, 2005, 169-176.
[35] Nguyễn Văn Lợi, Đoàn Văn Phúc, and Phan Xuân Thành, Sách học tiếng Pakoh-Taôih, UBNN Tỉnh Bình Trị Thiên, Canberra, 1984.
[36] David Thomas, “South Bahnaric and Other Mon-Khmer Numeral Systems,” Linguistics 174 (1976) 65-80.
[37] H.J. Pinnow, “Personal Pronouns in the Austroasiatic Languages: A Historical Study,” Lingua 14 (1965) 3-42.
[38] Michel Ferlus, “L’infixe instrumental -rn- en Khamou et sa trace en Vietnamien,” Cahiers de Linguistique, Asie Orientale 2 (1977) 51-55.
[39] Jeremy H.C.S. Davidson, “A New Version of the Chinese-Vietnamese Vocabulary of the Ming Dynasty-1,” Bulletin of the School of Oriental and African Studies 38, 2 (1975): 296-315 and no. 3 (1975): 586-608.

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Vol. 1, No. 1-2, February/August 2006. Bản tiếng Việt đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 187-202.