Monday, October 31, 2011

Kimberly Kay Hoang – Tình cảm trong lĩnh vực công nghệ tình dục ở thành phố Hồ Chí Minh (phần 1)

Nguyên Trường dịch

Tóm tắt: Bài báo này khảo sát nền công nghệ tình dục ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, một đất nước đã nhanh chóng thực hiện việc tái cấu trúc nền kinh tế trong hơn 20 năm qua. Trên cơ sở khảo sát tại chỗ trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007, tôi phân tích và so sánh quan hệ của những người lao động tình dục và các khách hàng của họ trong ba khu vực khác nhau của ngành công nghệ tình dục. Khu vực hạ cấp mua vui cho đàn ông Việt Nam, khu vực trung cấp phục vụ cho người da trắng ngoại quốc và khu cao cấp phục vụ cho người Việt hải ngoại (Việt kiều). Tôi sử dụng lí thuyết của Arlie Hochschild về biểu hiện tình cảm để minh hoạ những người phụ nữ trong khu vực hạ đẳng thường có thái độ thô bạo trong khi những người phụ nữ làm việc trong khu vực trung và cao cấp thường có tình cảm hơn. Khía cạnh tình cảm trong các mối quan hệ này cho thấy những điều kiện tạo thành những sự lựa chọn mà những người lao động trong lĩnh vực tình dục có thể có đối với khách làng chơi của họ.

Dẫn nhập

Trong vài chục năm gần đây đã xuất hiện nhiều tác phẩm viết về công nghệ tình dục trên phạm vi toàn cầu (Bales, 2004; Cabezas, 2004; Kempadoo, 2004). Trong mười năm qua, các nhà khoa học đã tập trung chú ý đến sự phát triển của du lịch tình dục trên phạm vi toàn cầu, được thể hiện bởi sự hoà nhập giữa du lịch quốc tế và khu vực, và sự cung ứng và tiêu thụ các dịch vụ tình dục (Brennan, 2004; Lim, 1998). Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, tình dục thường kết hợp với dòng di chuyển xuyên quốc gia của đàn ông từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển hơn (Wonders and Michalowski, 2001). Tiểu luận này khảo sát nền công nghệ tình dục toàn cầu hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh (HCMC), trước đây gọi là Sài Gòn, một thành phố, thông qua những thay đổi về mặt kinh tế-xã hội đầy kịch tính trong hơn 20 năm qua, đã tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Tôi phân tích và so sánh quan hệ giữa những người lao động trong lĩnh vực tình dục với các khách hàng của họ trong ba khu vực khác nhau của nền công nghệ tình dục ở thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra mẫu thức của tình cảm trong những mối qua hệ này. Về phía khách làng chơi đàn ông, tôi nhận thấy rằng một số người thích trả nhiều tiền hơn để đổi lấy sự thân tình chứ không chỉ tình dục. Về phía người lao động, tôi nhận thấy rằng khu vực dịch vụ quyết định hình thức tình cảm, người được trả công cao thường có biểu hiện tình cảm cao hơn. Elizabeth Bernstein (2007) là khoa học gia duy nhất mà tôi biết đã thử so sánh những người lao động trong những khu vực khác nhau của nền công nghệ tình dục ở San Francisco. Công trình nghiên cứu của Bernstein cho thấy tình cảm của những người lao động tình dục trong những khu vực được trả công trung bình và cao thông qua cái mà bà gọi là sự xác thực có giới hạn. Tuy nhiên bà biện luận rằng những người đàn bà đứng đường được trả công thấp thường tỏ ra vô cảm “làm cho xong”, không hề có tí tình cảm nào trong đó. Tôi mở rộng công trình nghiên cứu của Bernstein thông qua việc khảo sát ba lĩnh vực của nền công nghệ tình dục ở thành phố Hồ Chí Minh. Trái ngược với Bernstein, tôi thấy rằng những người lao động trong khu vực hạ cấp làm tình chỉ vì tiền thường có thái độ thô bạo vì họ phải đè nén sự kinh tởm trước cơ thể và tuổi tác của khách làng chơi. Hơn nữa, trong khi Bernstein thấy rằng tình dục cao cấp thường hoạt động trong không gian có tính rất riêng tư, khảo sát của tôi lại cho thấy khu vực tình dục cao cấp lại được thể hiện khá tình cảm, giúp những người đàn ông thể hiện nam tính của mình một cách công khai nhất ở thành phố Hồ Chí Minh. Các số liệu của tôi còn chứng tỏ sự tồn tại, dù không thật rõ nhưng cần thiết, giữa sự thân tình và quan hệ kinh tế mà những người làm việc trong lĩnh vực tình dục trung và cao cấp có dưới hình thức những biểu hiện thân tình với khách làng chơi (Zelizer, 2005) nhằm làm cho khách cảm thấy được an ủi, quan tâm, có khả năng tưởng tượng và khát khao.

Hoàn cảnh lịch sử: Mại dâm trong giai đoạn thuộc địa Pháp và Mĩ

Cùng với việc thiết lập các căn cứ quân sự với quân đồn trú trên những vùng khác nhau, công nghệ tình dục ở Đông Nam Á phát triển rất nhanh trong giai đoạn Pháp thuộc và chiến tranh Việt Nam. Cơ sở hạ tầng như thế đã tạo ra ở phương Tây hình ảnh người đàn bà đẹp và ngoan ngoãn ở Đông Nam Á (Enloe, 1990). Nạn mại dâm ở Việt Nam phát triển cùng với việc khai thác thuộc địa của Pháp, nhằm phục vụ thực dân. Trong khi trước thời Pháp thuộc người Việt Nam vẫn sống chủ yếu là ở làng quê, việc phát triển các trung tâm đô thị – trụ sở của bộ máy quản lí hành chính, thương mại và tài chính của nhà nước thuộc địa – thúc đẩy sự trỗi dậy trong cơ cấu kinh tế của đất nước làm cho nạn mại dâm cũng gia tăng (Guenel, 1997). Sài Gòn-Chợ Lớn, sau này đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, là thành phố bị tác động mạnh nhất trong giai đoạn thuộc địa. Thành phố này được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” với dân cư phát triển rất nhanh, từ 13.000 người vào 1883 lên thành 250.000 vào năm 1932, làm cho Sài Gòn trở thành biểu tượng của ảnh hưởng của phương Tây (Guenel, 1997: 149). Cho đến năm 1930 “Sài Gòn là trung tâm đô thị chủ yếu và là một trong những mắt xích phức tạp của nạn buôn người, có quan hệ mật thiết với giới mại dâm” (Rodriguez, 2008). Trong những thành phố như Sài Gòn, thực dân và dân bản xứ quan hệ mật thiết với nhau, điều đó đã dẫn tới những qui định cứng rắn hơn (Proschan, 2002). Thực dân Pháp cố gắng quản lí nạn mại dâm ở Đông Dương bằng cách buộc gái điếm phải đăng kí với chính quyền địa phương. Lí do căn bản là không để cho dân đi khai thác thuộc địa bị mắc những căn bệnh lây qua đường tình dục (Stoler, 1991, 1992). Nhưng việc quản lí đã thất bại vì nạn mại dâm có bảo kê giữ thế thượng phong trong thị trường tình dục. Mại dâm có bảo kê thường xuất phát từ các nhà thổ được nguỵ trang thành tiệm café, phòng hút thuốc phiện và quán bar, gây khó khăn cho việc quản lí công nghệ tình dục (Rodriguez, 2008).

Trong cuộc chiến Việt Nam, chính sách của Bộ quốc phòng Mĩ là hạn chế mại dâm đến hết mức có thể. Tuy nhiên, trong những năm 1960, việc quản lí của Mĩ đã trở nên lỏng lẻo hơn. Đến năm 1966, Sài Gòn có 1000 quán bar, hơn 100 hộp đêm và ít nhất là 30 tửu quán (Sun, 2004: 131). Khi Mĩ đổ thêm quân vào Việt Nam thì nhu cầu mại dâm cũng tăng. Năm 1967 có 500.000 quân Mĩ và quân Nam Việt Nam và theo đánh giá thì có khoảng một trăm ngàn phụ nữ tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghệ tình dục (Dunn, 1994). Khu vực trung tâm Sài Gòn và gần những khu nhà của người Mĩ và các căn cứ quân sự dày đặc các quán bar chuyên phục vụ người Mĩ (Jamieson, 1995). Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến giữa cộng sản Bắc Việt và chính phủ Nam Việt kết thúc bằng việc Sài Gòn thất thủ.

Thành phố Hồ Chí Minh trong khung cảnh toàn cầu đương đại

Sau khi Sài Gòn thất thủ, Việt Nam thực hiện chính sách bế quan toả cảng. Chính phủ xã hội chủ nghĩa thực hiện chương trình phục hồi nhân phẩm nhằm xoá bỏ nạn mại dâm. Nhưng sau một thập kỉ tụt hậu về sản xuất và lạm phát phi mã, năm 1986 chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách cải tổ mà họ gọi là Đổi Mới, tức là chính sách đã đưa Việt Nam từ nước xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường (Turley and Selden, 1993). Sài Gòn, sau này được gọi là thành phố Hồ Chí Minh, trở thành một thành phố có tốc độ lưu chuyển người và tư bản rất cao. Là “khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam”, thành phố Hồ Chí Minh đóng góp tới 35% tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam (Pham, 2003). Theo sau các nước xã hội chủ nghĩa khác, năm 2006 Việt Nam tham gia WTO, tức là tự mình lao vào nền kinh tế toàn cầu và thiết lập những mối quan hệ mới với các nước khác trong lĩnh vực ngoại thương và đầu tư (Greider, 1997; Hoogvelt, 1997; Sassen, 1998). Có một số bằng chứng cho thấy thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu nổi lên như là một thành phố toàn cầu mới, Saskia Sassen (2001) coi đây là trung tâm sản xuất, phát triển công nghệ và tài chính tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu hệ thống giao thông hiện đại, chưa có thị trường chứng khoán quốc tế lớn và chưa có ảnh hưởng tích cực đối với thị trường thế giới. Như vậy là, thành phố Hồ chí Minh mới là thành phố quốc tế đang lên chứ chưa phải là thành phố toàn cầu. Thành phố quốc tế đang lên, tôi khẳng định, là một phần của khu vực ngoại vi trong thị trường tư bản toàn cầu mà cơ cấu kinh tế và xã hội của nó đang ngày càng được định hình bởi quá trình toàn cầu hoá từ bên trên và hoạt động của chủ nghĩa siêu quốc gia từ bên dưới. Việc luân chuyển người và tư bản từ các nước đã phát triển sang các nước kém phát triển hơn là đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá từ bên trên. Những cá nhân sống trong các nước kém phát triển hơn lợi dụng các mối liên hệ toàn cầu của họ nhằm giữ vững hoặc nâng cao mức sống của họ chính là những người tham gia vào hoạt động của chủ nghĩa siêu quốc gia từ bên dưới (Smith and Guarnizo, 1998). Trong hai mươi năm qua người ta đã ít chú ý đến sự gia tăng hoạt động mại dâm trong đất nước đang toàn cầu hoá này (Nguyen-Vo, 2008). Thực vậy, Giáo sư Bùi Thị Kim Quy đã nhận thấy rằng nạn mại dâm ở Việt Nam đã gia tăng ngay sau Đổi Mới, với khoảng 200.000 phụ nữ Việt Nam thường xuyên tham gia (CATW, 2005).

Tình cảm thể hiện

Tôi sử dụng lí thuyết quan hệ tình cảm của Arlie Hochschild’s (2003 [1983]) làm phương tiện kiểm tra và so sánh quan hệ giữa người lao động tình dục với khách làng chơi ở thành phố Hồ Chí Minh. Trong công trình nghiên cứu các tiếp viên hàng không Mĩ và nhân viên thu nợ, Hochschild đã khảo sát sự thâm nhập của những mối quan hệ tình cảm vào trong quan hệ thương mại. Bà chia tình cảm của con người thành hai phần: phần cốt yếu của tình cảm của con người được thể hiện chủ yếu trong đời sống riêng, ở gia đình được bà gọi là tình cảm thực (emotion work) và việc biến tình cảm riêng tư thành một loại hàng hoá đem bán trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được bà gọi là tình cảm thể hiện (emotional labor). Muốn thể hiện tình cảm phù hợp với hoàn cảnh thì người ta phải cố tình gợi lên, uốn nắn và đè nén tình cảm bên trong bằng cách chuyển hoá tư tưởng, cơ thể và điệu bộ, thông qua cả những hàng động mang tính bề mặt bên ngoài và sâu thẳm ở bên trong nữa.

Hochschild khẳng định rằng tình cảm thể hiện thay đổi tuỳ thuộc vào giới tính và giai cấp xã hội. Những người có địa vị xã hội thấp kém thí dụ như phụ nữ, người da màu và trẻ con không có “những tấm lá chắn” nhằm bảo vệ họ khỏi những hành động xúc phạm đến tình cảm. Nói về giới tính, tình cảm thể hiện rất quan trọng đối với phụ nữ vì họ ít được độc lập về tài chính, ít quyền lực, uy tín và địa vị xã hội hơn là đàn ông. Vì vậy mà cần phải khảo sát tình cảm thể hiện thay đổi như thế nào trong những người làm việc trong lĩnh vực công nghệ tình dục với những địa vị xã hội khác nhau.

Việc thảo luận thường chủ yếu nhắm vào khu vực trung và cao cấp. Bài phân tích của tôi cho thấy những cơ chế khác nhau của tình cảm thể hiện và ước vọng trong hoạt động và mối quan hệ qua lại giữa những người lao động tình dục và khách làng chơi trong cả ba khu vực: hạ đẳng, trung và cao cấp. Mặc dù có nhiều “kiểu” người lao động và khách làng chơi trong từng khu vực, nhưng tôi đưa ra những mối quan hệ điển hình giữa đàn ông và đàn bà trong mỗi khu vực. Đàn bà trong khu vực hạ đẳng phục vụ chủ yếu cho khách làng chơi Việt Nam. Họ là những người được trả công thấp nhất, họ thường chỉ có những mối quan hệ ngắn và nhanh với khách và có thái độ thô bạo (Xiao, 2009). Những người lao động tình dục trong vực khu trung bình phục vụ cho khách du lịch ba lô da trắng. Trong khu vực này, đàn bà thường dùng tình cảm nhằm tạo ra sự cảm thông và tình yêu, thông qua những lời dối trá nhằm giữ vững và nâng cao mức sống của họ. Trái lại, đàn bà trong khu cao cấp phục vụ đàn ông Việt kiều và được trả công cao nhất. Đàn bà trong khu vực này dựa vào sự khao khát và quan tâm giả tạo để có thể sống với tiêu chuẩn “5 sao” quanh năm. Mặc dù tất cả những người đàn bà trong công trình nghiên cứu của tôi đều khoác cho công việc của họ những tấm áo khác nhau, hiện tượng “ăn bánh trả tiền” trắng trợn thường xảy ra trong khu vực hạ cấp, trong khi người lao động và khách làng chơi trong khu cao cấp thường trộn lẫn giữa hoạt động kinh tế với sự thân tình (Zelizer, 2005).
(còn tiếp)

Bản tiếng Việt © 2010 Nguyên Trường
Bản tiếng Việt © 2010 talawas

Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 25.5.2010.

No comments:

Post a Comment