Monday, October 31, 2011

Kimberly Kay Hoang – Tình cảm trong lĩnh vực công nghệ tình dục ở thành phố Hồ Chí Minh (phần 2)

Nguyên Trường dịch

Phương pháp nghiên cứu

Từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007, tôi đã tiến hành nghiên cứu tại hiện trường trong 7 tháng, chia làm ba thời kì. Trong thời gian này, tôi đã quan sát những người tham gia trong các quán bar, quán café, nhà của những người lao động tình dục, những khu phố buôn bán, khách sạn và đường phố. Các nhà khoa học, những người viết về phụ nữ lao động tình dục trong giai đoạn thuộc Pháp và Mĩ thường coi đàn bà là gái điếm trong các nhà thổ. Nhưng trong bài báo này, tôi tập trung chú ý vào những người lao động tình dục (sex workers) (Bernstein, 1999) trong kĩ nghệ tình dục đương đại, những người tự tham gia hoạt động tình dục chứ không phải là các gái điếm hay trẻ con bị buôn bán hay bị ép buộc (O’Connell Davidson, 1998). Như vậy là, công trình nghiên cứu của tôi chỉ giới hạn trong những người phụ nữ trên 18 tuổi, làm việc như những thực thể độc lập trong các quán bar hay câu lạc bộ mà thôi. Tôi bắt đầu công trình nghiên cứu bằng cách ngồi trong các quán bar và đứng trên đường phố để gặp và làm thân với những người lao động tình dục và khách làng chơi khác nhau trước khi đề nghị những người phụ nữ đó tham gia vào đề án của tôi. Sau khi đã kết thân với những người lao động trong các quán bar, tôi mới hỏi liệu họ có thể dành thời gian làm việc với tôi ở bên ngoài quán được không. Tôi cũng sử dụng hiểu biết của hai người lái xe ôm là Cường và Lộc, hai anh này đã giới thiệu tôi với những người đàn ông và đàn bà trong khu vực hạ cấp và trung bình. Qua những mối quan hệ như thế, tôi đã gặp gỡ tổng cộng 54 người lao động và 26 khách làng chơi trong cả ba khu vực. Đấy là những người đồng ý tham gia vào dự án của tôi.

Khu vực hạ cấp: Tôi phải giải quyết việc đó trong hai mươi phút

Những người lao động tình dục chuyên phục vụ cho đàn ông địa phương thường hoạt động trong những địa điểm mang danh hiệu cắt tóc, quan café hay trong các công viên xung quanh quận I trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Một buổi chiều mùa hè, Cường chở tôi đến quân Tân Bình, đi từ trung tâm thành phố mất 45 phút xe ôm. Ở đây có 25 hiệu cắt tóc nằm thành một dãy sát nhau. Tất cả các hiệu cắt tóc trông đều giống nhau, rộng khoảng hơn một mét, dài gần hai mét, với hai hoặc ba người lao động tình dục ngồi bên trong. Không có Cường thì tôi không thể nào ngờ được rằng đây là những điểm mại dâm vì trông chúng cũng chẳng khác gì những hiệu cắt tóc hợp pháp khác trên khắp thành phố này.

Chúng tôi dừng lại trước một hiệu có treo một cái gương lớn và hai chiếc ghế bọc da ở bên trong. Ở đằng sau cái màn hoa là một chiếc giường bọc da, như thể chỉ đủ cho một người nằm. Quán có vẻ ọp ẹp, không có bồn rửa tay, cũng chẳng có phòng tắm. Tiền thuê một chỗ như thế khoảng 40 USD một tháng. Tôi gặp Thuý, Yến và Thu, ba người là chị em họ với nhau, tuổi khoảng gần 35. Khác với những người làm trong hai khu vực kia, những người này không có quần áo đẹp hay loè loẹt. Họ là đối tượng của những người đàn ông nghèo khó trong khu vực, những người cho rằng cơ thể của họ vừa gần gũi lại vừa quen thuộc nữa. Tôi đã đến cái quán này mấy lần, giống như mọi quán khác trên cùng con phố, nó thường hoạt động vào buổi sáng và buổi chiều và đóng cửa trước 5 hoặc 6 giờ chiều. Thời khoá biểu như thế giúp những người đàn bà này che giấu gia đình và họ có thể có mặt ở nhà khi con họ đi học về. Những người đàn bà này kiếm sống bằng mãi dâm, mỗi khách làng chơi chỉ trả họ 3USD là cùng. Thuỷ, Yến và Thu đều là các bà mẹ đơn thân; chồng họ đã bỏ đi theo những người đàn bà trẻ hơn. Sau khi bị ruồng bỏ, để có tiền nuôi con các cô phải bán dâm. Trung bình mỗi cô có ba người khách một ngày, tức là được khoảng 100 USD một tháng. Theo Thuỷ thì như thế là thu nhập cao hơn những người phục vụ trong các nhà hàng hay “osin” khoảng 40USD/tháng. Khi mới vào, khách làng chơi ngồi lên ghế, các cô bắt đầu massage đầu và cổ. Nếu là khách mới thì các cô phải đợi khách tự yêu cầu “dịch vụ”, nghĩa là họ biết có việc bán dâm ở đây. Thực ra, đúng là có người đến cắt tóc thật, nhưng ít người đi ra với cái đầu đã được hớt gọn gàng. Khách quen thường đến đòi phục vụ tình dục ngay. Tất cả các cửa hiệu cắt tóc trên con đường này cũng như trong các quận ngoại thành khác đều hoạt động theo kiểu ấy.

Quan hệ người lao động-khách làng chơi thường kéo dài 20 phút, đấy là khi các cô không gặp phải những “ca khó”; trong những trường hợp như thế (khó), cô khác phải vào giúp; khách làng chơi vẫn chỉ trả có 3 USD. Tôi ngồi tán gẫu với các cô suốt 3 tiếng đồng hồ trước khi Phong, một khách làng chơi khoảng 45 tuổi, tới. Anh này mặc một chiếc quần màu xám, áo T-shirt  cộc tay. Anh ta ngồi lên chiếc ghế da, nhưng cả anh ta lẫn ba người phụ nữ và tôi đều không nói một lời nào. Tôi thấy Thuỷ massage cổ anh ta chừng năm phút, rồi hỏi: “Anh sẵn sàng chưa?” Không trả lời, anh ta đi vào nằm lên giường, còn Thuỷ thì kéo bức màn che lại. Khi Thuỷ “làm việc” thì Yến và Thu quay sang tôi. Tôi hỏi: “Anh ta là khách hàng thường xuyên à?” Yến đáp: “Vâng, tuần nào anh ta cũng tới và chỉ đòi Thuỷ thôi. Chúng tôi rất lo vì anh ta là loại khó”. Tôi hỏi: “Khó nghĩa là thế nào?” Cô bảo: “Anh ta thuộc loại có tuổi, Thủy cảm thấy khó cho nên chúng tôi phải vào giúp. Tôi ghét lắm vì anh ta bóp rất chặt. Đôi khi rất đau, nhưng chúng tôi không dám nói hay làm gì vì anh ta trả tiền cho chúng tôi”. Hai mươi phút sau Thuỷ và khách của cô đi ra. Anh ta lấy xe mô tô và phóng đi mà không nói với ai câu nào. Sau khi khách đã đi, tôi hỏi Thuỷ: “Các vị có nói chuyện với nhau không?” Cô nhìn tôi và bảo [bằng tiếng Việt],

“Không, chẳng có gì mà nói. Họ đến và nhận được cái mà họ cần rồi đi. Chúng tôi có thể nói gì được? Có vẻ như họ chẳng quan tâm hay tôn trọng gì chúng tôi. Đôi khi ba chúng tôi nói chuyện rồi khóc với nhau vì những người như cái gã vừa nãy là những kẻ rất khó. Họ tỏ ra thô lỗ và chỉ muốn nhận cái mà họ trả tiền thôi. Nếu chúng tôi không “giải quyết được” thì họ sẽ không trả tiền cho nên đôi khi cả ba chúng tôi phải thay nhau giải quyết cho ‘nó ra’”.

Kiểu quan hệ này thường chỉ là “ăn bánh trả tiền” mà không cần mặc cả hay tình cảm gì hết. So với những người phụ nữ trong khu vực trung và cao cấp thì những người đàn bà này không cần cố gắng thiết lập quan hệ thân mật với khách làng chơi. Những người phụ nữ trong khu vực này phải là cái việc mà Hochschild (2003 [1983]) gọi là “kiểm soát hay đè nén tình cảm, tức là cố tình đè nén cái tình cảm không hay đang xuất hiện”. Những người đàn bà này phải đè nén cảm xúc coi thường khách làng chơi của họ. Khách làng chơi tới, được phục vụ và rời khỏi tiệm trong vòng 20 phút. Những người đàn bà trong khu vực này mất thì giờ chủ yếu cho công việc và gia đình, và không tìm cách chuyển sang khu vực được trả công cao hơn.

Do tính chất quan hệ giữa người lao động và khách cho nên tôi khó bắt chuyện với khách làng chơi khu vực hạ đẳng. Vì vậy mà Cường, tức là anh lái xe ôm mà tôi quen, thường bắt chuyện với những người đàn ông địa phương, anh hỏi, còn tôi thì ngồi nghe. Khi ngồi với Cường trong một quán café nhỏ ở quận Tân Bình, tôi đã gặp một người lái xe tải tên là Thực, khoảng 35 tuổi. Cường hỏi: “Anh có hay vào quán này không?” Thực đáp: “Có, tôi thường đến đây khi đi ra ngoài thành phố”. Cường hỏi: “Mấy cô ở đây thế nào?” Thực bảo:
“Mấy người ở đây đều là phụ nữ nhà quê, họ sạch sẽ nhưng không thể nói chuyện với họ được. Tôi đến, giải quyết, rồi đi. Chỉ phải trả 50 ngàn (3 USD) thôi. Còn đòi gì nữa? Họ không phải là những người đàn bà cao sang đi với bọn da trắng. Họ chỉ là những người đàn bà nông thôn nghèo túng không có việc làm mà thôi”.
Những người đàn bà này chỉ bán thân vì khách hàng của họ cũng chẳng cần gì hơn là làm tình. Đa số đàn ông đến đây là những người thất nghiệp hoặc không có tay nghề, thu nhập chừng 50 USD tháng; họ không thể đòi hỏi hơn. Quan hệ giữa người lao động-khách hàng là “mì ăn liền”, khách làng chơi làm tình với những người mà họ cảm thấy dễ chịu. Mặc dù khách làng chơi không nghĩ rằng những người phụ nữ ở đây thể hiện tình cảm với họ, nhưng thật ra, những người phụ nữ ở đây phải đè nén sự khinh bỉ đối với khách hàng của mình.

Khu trung lưu: “Cô ấy là một người khoẻ mạnh và trung thực

Giống như đường Khao San ở gần Bangkok hay phố Petaling ở Kuala Lumpur, Phạm Ngũ Lão, quận 1 ở thành phố Hồ Chí Minh là khu du lịch “Tây ba lô”. Những khu vực này phục vụ du khách quốc tế đủ mọi thành phần, nhưng nổi tiếng vì có các dịch vụ du lịch và khách sạn rẻ tiền. Có rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, khách sạn mini, hãng du hành, nhà hàng, quán café và dĩ nhiên là các quán bar chuyên phục vụ đàn ông da trắng nữa. Các phố trong khu vực này đầy những người bán hàng rong, trẻ con đường phố và phục vụ chủ yếu cho người nói tiếng Anh. Tôi tiến hành khảo sát bảy quán bar trong khu vực này. Mối quan hệ giữa người lao động và khách làng chơi có thể thấy rõ trong một quán tên là Azul, rộng khoảng một mét rưỡi, dài chừng bốn mét, quầy thu ngân ốp đá với 6 chiếc ghế cho khách ngồi và uống. Phía sau là một chiếc ghế bành hình chữ L bọc da. Ngay ngoài cửa có hai cái bàn, chủ quán thường ngồi và nói chuyện với khách ở đấy. Những người lao động tình dục làm việc ở đây đóng vai người pha rượu có lương. Trong khi họ là những người kéo khách vào quán thì họ lại chẳng được chủ trả cho đồng nào. Những người lao động tình dục dùng quán làm chỗ gặp gỡ khách làng chơi và họ tự ra giá mà không cần trung gian nào hết. Người lao động phải trả cho chủ quán 7 USD sau mỗi lần “đi” khách. Khách làng chơi phải trả từ 30 đến 70 USD, tuỳ thuộc vào yêu cầu của từng cô và khả năng mặc cả của khách. Các quán bar trong khu vực “Tây ba lô” có tốc độc lưu chuyển cao, không chỉ vì các cô ở đây thường chuyển từ quán nọ sang quán kia, hi vọng tìm được khách mới mà còn vì các quán này thường bị chính quyền bắt đóng cửa, rồi lại được mở. Tất cả các cô tôi gặp ở khu vực này đều có tuổi gần ba mươi và phần lớn là những bà mẹ đơn thân.

Tôi gặp Trâm vào tháng 6 năm 2006 và giữ liên lạc với cô cho đến tháng 8 năm 2009, sau đó cô đi Canada với ông chồng người Mĩ tên là William vì cô không được nhập cư vào Mĩ. Khi gặp Trâm lần đầu trong quán Azul, cô đã làm tôi ngạc nhiên vì đây là người sành điệu nhất trong quán. Cao khoảng 1 mét 6, cô thường mặc những bộ quần áo làm nổi bật những đường cong trên cơ thể. Cô trang điểm nhẹ nhàng và tự nhiên, tay và cổ đều có đeo vòng, hoa tai có gắn hạt xoàn. Bề nổi, Trâm có rất nhiều tiền và tất cả những người phụ nữ trong quán bar này đều ghen tị với đồ trang sức của cô. Tôi đã bắt chuyện với Trâm ngay tối đầu tiên. Cô nói là trước đây cô đã có chồng người Việt Nam, tên là Hải và có với anh này ba đứa con. Người chống cũ và ba đứa con cũng như họ hàng đều sống cách trung tâm thành phố chừng một giờ đi xe. Cách đây vài tháng bạn cô, tên Trang, giới thiệu cô cho Cô Thuỷ, chủ nhà hàng và cô bắt đầu giữ chân pha rượu từ đấy. Ban đầu Cô Thuỷ bảo là Trâm chỉ được nhận tiền “bo” của khách ngoại quốc. Tháng đầu cô được 75 USD. Chẳng bao lâu sau cô biết rằng có thể kiếm được nhiều hơn nếu cô chịu đi “với khách về nhà”. Trâm bảo tôi: “Cô Thuỷ không bao giờ ép tôi đi khách. Nhưng cô ấy bảo tôi là có thể kiếm được nhiều tiền nếu làm theo cách đó. Thế là tôi bắt đầu làm và kiếm được khoảng 75 USD mỗi lần đi khách”.

Trâm kể cho tôi nghe chuyện làm quen với một người đàn ông đến từ bang Connecticut, tên là William, ngay trong quán bar này. Ban đầu William có vẻ rất thích cô và trả giá cao (120 USD mỗi đêm). Sau hai tuần họ đã có quan hệ thân mật, họ kể cho nhau nghe chuyện đời mình và đi chơi phố với nhau suốt ngày. William rời Việt Nam để về Mĩ vào tháng 6 năm 2006, nhưng vẫn giữ quan hệ với Trâm qua chatroom và email. Anh gửi cho cô mỗi tháng 500 USD để chi tiêu và trả tiền học phí tiếng Anh. Năm tháng sau (tháng 1 năm 2007) William quay lại Việt Nam, Trâm li dị với người chống cũ và hai người kết hôn. Sau đó không lâu cô sinh một bé gái, đặt tên là Jessica và họ rời khỏi khách sạn để chuyển đến căn hộ ba buồng ở Phú Mỹ Hưng, một khu ngoại ô mới với những căn hộ và villa sang trọng dành cho giới giàu có mới. Trâm và William phải trả tiền thuê nhà là 1200 USD một tháng, tức là gấp 12 lần giá trung bình ở thành phố Hồ Chí Minh. Đấy là khu nhà ở mới nhất và đắt nhất, nằm trong quận đang được cải tạo. William và Trâm đồng ý ở lại Việt Nam cho đến khi cô được phép di cư.

Tôi hỏi Trâm tại sao cô còn làm trong ngành kĩ nghệ tình dục khi đã có đủ thứ mà đa số những người phụ khác trong lĩnh vực này ước ao: chồng ngoại quốc, tiền và cơ hội định cư ở nước ngoài. Trâm nói [bằng tiếng Việt]:

“Các cô ở đây bảo rằng tôi tham. Tôi làm ở đây vì hai lí do. Thứ nhất, tôi phải gửi tiền cho anh chồng cũ và con tôi. Tôi vẫn còn yêu anh chồng đầu tiên. Tôi phải giả vờ yêu William và chăm sóc anh ta vì anh đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều. Không phải là tôi không yêu William. Nhưng đây là kiểu tình yêu khác, ta phải nuôi dưỡng tình yêu đối với người đã giúp đỡ mình. Không có gì bảo đảm là William sẽ đưa được tôi ra khỏi Việt Nam được. Sứ quán nghiên cứu rất kĩ các trường hợp làm đám cưới giả. Họ có thể cho rằng đám cưới của tôi là giả vì tôi đã li dị cho nên tôi phải có kế hoạch dự phòng chứ”.

Mặc dù Trâm phải nuôi “tình yêu” với William, tình cảm của cô đã chuyển hoá từ cố gắng tạo ra tình cảm và quan tâm sang tình cảm sâu nặng đối với William. Trâm tiếp tục làm việc trong ngành kĩ nghệ tình dục ngay cả khi đã kiếm được một ông chồng ngoại quốc là vì địa vị về mặt kinh tế và xã hội của cô chưa được chắc chắn, và cô cần tiền để cung cấp cho gia đình.

Những người phụ nữ đồng cảnh ngộ với Trâm sống trong thành phố quốc tế mới nổi có thể dựa vào hoàn cảnh nghèo nàn và thuộc thế giới thứ ba của đất nước nhằm kích thích trí tưởng tượng của khách làng chơi, để họ cảm thấy như đang đóng vai những vị cứu tinh cho các cô. Sau khoảng hai tháng rưỡi làm quen với Trâm trong quán bar, quán café và mua sắm, Trâm bắt đầu nói cho tôi biết những tình tiết trong cuộc sống với William. Một buổi chiều tháng 8 năm 2007, Trâm mời tôi về nhà, tôi gặp William và con gái họ là Jessica ở đấy. Khi nói chuyện về Việt Nam, William bảo tôi:

“Chị biết đấy, người ta thường có quan niệm xấu về những người đàn ông da trắng lấy vợ Việt Nam. Nhưng tôi yêu Trâm ngay từ ngày đầu tiên tôi gặp cô ấy ở nhà hàng Azul. Không như những người đàn bà ở Mĩ, cô ấy không đòi bình đẳng. Cô ấy biết cách chăm sóc tôi. Cô ấy là người giàu tình cảm và cô ấy làm cho tôi cảm thấy mình là người được yêu. Mặc dù chúng tôi có osin, chuyên nấu ăn và giặt giũ, nhưng Trâm vẫn hướng dẫn cho cô ta cách nấu những món ăn mà tôi thích”.

Tôi hỏi anh ta: “Tại sao anh lại lấy cô ấy mà không lấy người nào đó ở Mĩ?” Anh ta đáp: “Tôi là người lái xe bus đã 20 năm nay, khó tìm người yêu lắm. Không ai muốn lấy lái xe bus hết. Sau khi mẹ mất tôi được thừa kế rất nhiều tiền và tôi quyết định đi chu du khắp thế giới. Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng của tôi. Tôi yêu đất nước này và yêu Trâm nữa. Tôi không nói được tiếng Việt và cô ấy nói tiếng Anh cũng không tốt lắm, nhưng chúng tôi vẫn hiểu nhau. Tôi vui vì được chăm sóc cô ấy. Khi tôi nhìn thấy cảnh cha mẹ và con cô ấy sống, tôi đã cho họ 50.000 USD (trong vòng 6 tháng) để xây lại nhà. Chúng tôi gửi cho họ mỗi tháng 200 USD để mua thức ăn và đồ dùng lặt vặt. Trâm là người mạnh khoẻ và đa tình”.

Đàn ông gặp những người như Trâm đã thấy lí do vì sao cô lại tham gia vào kĩ nghệ tình dục. Trâm và William quan tâm đến nhau, hai người kể cho nhau nghe câu chuyện của đời mình, yêu nhau (thật hay giả) và quan tâm đến nhau. William nói với tôi ước muốn được “chăm sóc” người đàn bà trung thực và mạnh mẽ như Trâm. Anh ta còn muốn cứu cô khỏi cảnh làm gái bán bar vì khác với những người đàn bà ở phương Tây, Trâm làm cho William không chỉ cảm thấy được yêu mà còn là người cần thiết và trên thực tế là nhân vật quan trọng vì anh đã chi tiền để cải tạo căn nhà của bố mẹ cô. Khác với những người lao động tình dục chuyên phục vụ cho đàn ông Việt Nam đã nói đến bên trên, khả năng nói tiếng Anh, khả năng giao tiếp với người nước ngoài và tạo cảm giác yêu đương và thông cảm của Trâm đã giúp cô thuyết phục được những người đàn ông phức tạp như William thường xuyên giúp đỡ cô. Câu chuyện về những người như William và Trâm cho thấy chiến thuật của phụ nữ trong việc sử dụng tình cảm để có thể nhận được tiền, nâng cao mức sống và có thể ra nước ngoài định cư.

(còn tiếp)

Bản tiếng Việt © 2010 Nguyên Trường
Bản tiếng Việt © 2010 talawas

No comments:

Post a Comment