Hoài Phi dịch
Tiểu luận này đặt câu hỏi về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc xem xét ấn phẩm từ cơ quan lưu trữ của đảng. Mặc dù những câu hỏi đặt ra chỉ mang tính chất thăm dò, chúng vẫn giúp nhấn mạnh một tình trạng kỳ lạ. Bất chấp việc có cả kho tài liệu hiện đang tồn tại về Đảng Cộng sản Việt Nam, lại có rất ít thông tin về việc những văn bản này đã được thu thập, hệ thống hóa trong các phòng lưu trữ như thế nào, và sau đó được chọn lọc để công bố trước công chúng qua sách vở, tạp chí, website chính thống ra sao, v.v… Vì những ấn bản này ưu tiên việc tạo lập một số “sự thật” bằng cách hy sinh một số sự thật khác, chúng định hình cho việc những câu hỏi có thể được đặt ra về đảng – không chỉ như một thiết chế mà còn như một tiến trình tư tưởng và thực hành của bộ máy hành chính, quy định việc người Việt cai trị bản thân họ và những người khác như thế nào.[1] Điều này không có nghĩa rằng một số xác nhận [về đảng] không có nguyên nhân, đặc biệt là những khẳng định nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội Việt Nam; ngược lại là đằng khác, như bất kỳ người nào từng bị “đường lối” của đảng trong một lĩnh vực nhất định nào đó ảnh hưởng tới cuộc sống của mình, đều có thể chứng thực điều này. Nhưng ở đây, tôi muốn lập luận là việc chú ý chi tiết tới hình thức cụ thể của những ấn phẩm này, thêm vào đó là những thay đổi trong nội dung, có thể giúp chúng ta hiểu được nhiều vấn đề trước đó ít được chú ý – chẳng hạn như cách thể hiện chính thống về một chính quyền hiện tồn và về những thay đổi cách thể hiện chính quyền ấy qua thời gian; đây là trọng tâm vấn đề mà tôi chú ý.
Ví dụ, Văn Kiện Đảng Toàn Tập từ lâu đã được coi là một nguồn quan trọng đối với những người quan tâm đến những “sự thật” như thế. Giai đoạn đầu tiên của dự án này, do Bộ Chính trị khởi xướng vào buổi đầu thời kỳ đổi mới, đòi hỏi hơn mười hai năm mới hoàn thành xong. Được in từ năm 1998 đến năm 2007, thành quả của dự án này gồm năm mươi bốn tập, chứa đựng khoảng bốn ngàn văn kiện được ban hành trong khoảng thời gian từ năm 1924 đến năm 1995.[2] Gộp lại, nội dung được sắp xếp theo trình tự thời gian trong bộ Văn Kiện Đảng cung cấp cho người đọc một hồ sơ vô cùng hữu ích về các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, nghị định, hướng dẫn… mà nhà cầm quyền ở cấp trung ương đã ban hành trong khoảng thời gian mà bộ văn kiện bao hàm. Nhưng lướt qua mục lục cuối mỗi tập văn kiện, người đọc biết rằng chỉ có một phần của tổng số văn kiện ban hành hàng năm được xuất bản. Do vậy, việc bạch hóa từng phần ở đây trở thành một quy tắc, chứ không phải là ngoại lệ, đặc biệt là khi không có một chuẩn mực và quy trình rõ ràng nào được áp dụng để quyết định tài liệu nào cần được công bố và tài liệu nào không được đưa in.[3]
Việc bỏ thiếu một số văn kiện này gây ra một số vấn đề cho những nhà nghiên cứu thường sử dụng chúng để đưa ra những lập luận hoặc củng cố hoặc bác bỏ tường thuật chính thức [của đảng] về quá khứ. Loại sức nặng chứng cứ nào có thể được đặt ra với những tài liệu xuất hiện trong những tập văn kiện mà về bản chất là chọn lọc thay vì trọn vẹn? Chúng ta có thể xây dựng câu chuyện mình kể như thế nào với khoảng trống giữa những gì đã và chưa được công bố trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập, nhưng chúng ta biết về sự tồn tại của chúng ở đâu đó, thường là dưới hình thức lưu trữ.[4] Và khi nào thì những chỗ thiếu này báo hiệu cho chúng ta biết việc giới thiệu “sự im lặng” trong hồ sơ lịch sử là có chủ ý thay vì tình cờ?[5]
Nỗ lực “đọc ngược dòng với văn bản” và qua đó trả lời cho những câu hỏi này còn trở nên phức tạp hơn do một vài yếu tố. Việc tiếp cận với kho lưu trữ, dù đã tiến bộ nhiều, vẫn còn bị hạn chế và kiểm soát chặt chẽ.[6] Hơn nữa, còn rất nhiều nhân vật, sự kiện và quyết định tiếp tục bị giới hạn đối với các học giả nghiên cứu vì bị coi là gây tranh cãi, hoặc quá gần đây. Tuy vậy, chúng ta không thể quy tất cả những hạn chế đó cho việc kiểm duyệt có tính toán hoặc/và các trở ngại mang tính chất quan liêu, mặc dù cả hai điều này đều có xảy ra. Điều này là bởi vì những gì bị bỏ thiếu, những khoảng cách và những im lặng cũng phản ánh di sản của quá trình đã hình thành không chỉ việc tạo ra phòng lưu trữ tài liệu của đảng/nhà nước, mà cả về hình thức và nội dung của các văn kiện được đưa vào công bố trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập.[7] Phần tiếp theo sẽ cung cấp tổng quan tóm lược về một số tiến trình này, sau đó tôi sẽ đưa ra ba ví dụ ngắn để minh họa việc chúng đã ảnh hưởng tới cách thể hiện chính thống về một chính quyền hiện tồn như thế nào.
Quá trình hình thành lưu trữ
Chính phủ lâm thời, hành động theo khuyến cáo của Bộ Giáo dục, ban hành nghị định cho phép thành lập cơ quan lưu trữ quốc gia chỉ một vài ngày sau khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày mùng 2 tháng Chín năm 1945.[8] Nhưng cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ nhất (1946-1954) đã làm gián đoạn kế hoạch này. Do bản chất bất đối xứng của xung đột, ủy ban kháng chiến ở từng vùng và đôi khi ở từng tỉnh đã phát triển hệ thống của riêng họ để điều hành những địa hạt thường xuyên thay đổi trong vùng họ kiểm soát hoặc có ảnh hưởng. Mặc dù chính sách yêu cầu việc sao chép lại văn kiện mà các ủy ban này ban hành và chuyển tới khu giải phóng Việt Bắc, nơi Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến đóng trong suốt hầu hết cuộc chiến, nhưng rất nhiều văn kiện đã không được gửi đi hoặc thất lạc không đến nơi.[9] Vì vậy những văn kiện được đưa về Hà Nội sau khi Chiến tranh Đông Dương thứ nhất kết thúc và sau đó được xếp vào các kho đặc biệt xây để bảo quản chỉ bao gồm một phần nhỏ những văn kiện và tài liệu thực sự được ban hành trong cuộc chiến.[10]
Thực vậy, hồ sơ lưu trữ hết sức rời rạc và lộn xộn trong suốt thập niên tiếp theo đó. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên cả, nếu tính đến quy mô của những vấn đề mà đảng/nhà nước mới thành lập đang phải đối mặt sau khi giành được độc lập, bao gồm cả những vấn đề do chính đảng/nhà nước này gây ra, chẳng hạn như cải cách ruộng đất.[11] Vì những lý do đó, cố gắng lớn đầu tiên trong việc hệ thống hóa, in ấn và lưu hành số thư từ và văn kiện chính thức mãi cho đến tháng Mười Một năm 1957 mới thực sự được bắt đầu, khi chiến dịch Sửa sai đã được áp dụng rộng rãi. Điều thú vị là nghị định này không đổ lỗi tính thiếu hệ thống cho việc thanh trừng hàng loạt diễn ra trong thời cải cách ruộng đất, chỉnh đốn hàng vạn cán bộ thuộc các tổ chức quần chúng và cơ quan hành chính khác nhau dựa trên nền tảng được cho là ý thức hệ.[12] Thay vì vậy, nghị định phê phán cá nhân ở mọi cấp đảng/nhà nước về khuyết điểm lâu dài của họ trong việc hoàn thành các báo cáo được yêu cầu và/hoặc kịp thời nộp báo cáo cho cấp trên. Để cải thiện hiệu suất cả hai lĩnh vực này, nghị định thiết lập hướng dẫn rõ ràng, trong đó quy định cụ thể loại tài liệu nào – tất thảy gồm mười chín thể loại – cần được hoàn thành, và phải được sao chép rồi nộp cho cơ quan hữu quan, kể từ thời điểm đó trở đi.[13]
Nghị định này không chấm dứt được những khuyết điểm nói trên, một phần vì nhiều cán bộ “mới” được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo địa phương sau cải cách ruộng đất đều ít học hoặc không trải qua trường lớp và vì vậy, thường hầu như mù chữ. Nhưng nghị định đánh dấu khởi đầu trong nỗ lực của đảng/nhà nước nhằm biến cuộc sống ở những vùng nông thôn trở thành “dễ đọc” hơn và do đó dễ uốn theo các hình thức kế hoạch tập trung, qua việc sử dụng các mẫu được chuẩn hóa, các chỉ số thống kê và các lịch báo cáo.[14] Những thử nghiệm này tiếp tục mãi đến tận thập niên 1960 và có ảnh hưởng rất lớn, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với khả năng “điều hành từ xa” của lãnh đạo tại Hà Nội, có nghĩa là từ thủ đô giám sát các công việc hành chính ở nông thôn trong những thập niên tiếp theo.[15] Mặc dầu vậy, vào thời điểm đó, ước vọng lưu trữ của giới lãnh đạo chỉ tập trung vào việc củng cố quá khứ thay vì lưu tài liệu về hiện tại.[16]
Năm 1958, đại diện chính phủ yêu cầu và sau đó nhận được tài liệu từ Pháp liên quan đến Hồ Chí Minh và các nhân vật quan trọng khác trong phong trào chống thực dân của thập niên 1920 và 1930 – một số sau đó được in trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập. Năm sau đó, ban Bí thư đảng ban hành Thông tư số 529, một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu cán bộ ở tất cả các cấp hoàn thành báo cáo đúng cách; thông tư này cũng yêu cầu họ thu thập và gửi về Hà Nội toàn bộ tài liệu ban hành trong cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ Nhất còn tồn tại để chúng được phân loại, liệt kê và đưa vào lưu giữ tại một địa điểm tập trung.[17]
Đầu năm 1958, đảng tìm kiếm và nhận được trợ giúp kỹ thuật từ các nước xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là Liên Xô, để hoàn thành nhiệm vụ lưu trữ. Trong thời kỳ hình thành này, Alexandrov Emelin tới Hà Nội và cố vấn cho Văn phòng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tổ chức lưu trữ như thế nào. Sau đó, văn phòng này gửi năm cán bộ đến Moscow, nơi họ được đào tạo cấp tốc tại Viện Lịch sử và Lưu trữ Nhà nước – trong số này có ba cán bộ người miền Nam được dự định gửi vào Nam để lưu trữ những văn kiện do Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành về sau.[18] [Liên Xô] cũng dịch hướng dẫn lưu trữ và các sưu tập đặc biệt sang tiếng Việt, tổ chức các hội thảo tập huấn, giúp nâng số cán bộ cho các cơ quan cấp trung ương lên 179 người và thêm 101 người khác được bổ nhiệm về các ủy ban hành chính cấp tỉnh trên toàn quốc vào cuối năm 1963.[19]
Sự phát triển nhanh chóng về chuyên gia lưu trữ khiến đảng khơi lại nỗ lực củng cố lịch sử của mình giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình này được bắt đầu thực sự vào năm 1962, do Trần Văn Nguyên, Đào An Thái và Vũ Dương Hoan dẫn đầu.[20] Nhưng do căng thẳng vùng miền gia tăng và các quan ngại về xung đột có vũ trang sắp tái diễn, chỉ hai năm sau đó, thủ tướng ban hành chỉ thị ra lệnh sơ tán toàn bộ các tài liệu quan trọng.[21] Điều này bao gồm việc chuyển toàn bộ các văn kiện do Ủy ban Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước và các tổ chức quần chúng cấp trung ương cũng như của Ủy ban Hành chính Hà Nội về Việt Bắc, nơi một số lượng tài liệu lớn trước đó đã được lưu trữ trong các hang đá và trong kho thời Chiến tranh Đông Dương thứ Nhất. Nhưng lần này, tài liệu được đưa vào những công trình được thiết kế đặc biệt cho mục đích lưu trữ – một kho rộng ba ngàn mét vuông xây bằng xi măng tại một địa điểm bí mật vào cuối năm 1964 dưới sự giám sát trực tiếp của Nguyễn Lương Bằng.[22]
Hiện chúng ta không biết nhiều về bản chất và quy mô tiến trình lưu trữ trong Chiến tranh Đông Dương thứ hai. Tuy vậy, các nguồn chính thức cho thấy việc phân loại và liệt kê các tài liệu hồ sơ xưa cũ nhất của đảng (từ năm 1925-1945) được tiếp tục tại kho lưu trữ ở Việt Bắc trong thời gian chiến tranh, và cũng có nỗ lực lưu trữ tài liệu ở ngoài Việt Bắc về các khía cạnh khác nhau của cuộc chiến khi chúng đang diễn ra.[23] Điều thú vị là quy định và thủ tục được đặt ra trước cuộc chiến phần lớn vẫn không thay đổi gì cho đến mãi sau khi chiến tranh kết thúc. Nhưng hoàn cảnh thay đổi lớn lao trong thập niên 1990, khi một số bộ phận khác nhau của đảng/nhà nước trong vòng một thập niên ban hành hàng loạt nghị định, nghị quyết, thông tư, v.v… có ảnh hưởng tới gần như toàn bộ mọi mặt của thực hành lưu trữ khi đó.[24] Ủy ban Xuất bản Văn Kiện Đảng Toàn tập, đứng đầu là Ủy viên Bộ Chính trị Trương Tấn Sang, bắt đầu công việc này trước đổi mới một vài năm, vì vậy ít khả năng là các thay đổi có ảnh hưởng lớn tới quyết định chọn đưa tài liệu nào vào tập văn kiện. Tuy nhiên, tiến trình hình thành cơ cấu tổ chức lưu trữ tài liệu đảng/nhà nước trước thời điểm này có ảnh hưởng tới việc họ có thể sử dụng “sự thật” nào.
Tác động
Trong nhiều thập niên, các quyết định được đưa ra trong môi trường thông tin nghèo nàn do thiếu nhân lực, cơ sở giao liên hạ tầng hạn chế, việc thường xuyên cải tổ bộ máy hành chính đang phát triển nhanh rộng của đảng/nhà nước, và do xung đột vũ trang. Điều kiện khó khăn này đồng nghĩa với việc lãnh đạo ở các cấp thường phải ra quyết định mà không có đủ thông tin họ cần cũng như về các chính sách mới nhất, và trong nhiều trường hợp thì họ thiếu cả hai. Mặc dù tình trạng này đã được cải thiện nhiều trong những thập niên gần đây, nhưng những yếu tố đó đã định hình cách thể hiện chính thức về chính phủ đương quyền – như cách nó xuất hiện trong Văn kiện Đảng Toàn tập – trong nhiều mặt, nhưng điều này không mấy được để ý. Sau đây là ba ví dụ ngắn.
Một, việc kiểm soát thông tin chặt chẽ, một điều kiện cần thiết trong cuộc đấu tranh chống thực dân, sau này được thiết chế hóa thành một phần của nỗ lực “xây dựng” nền kinh tế tập trung. Vì quyền lực trong bối cảnh như vậy dựa vào khả năng của bộ máy hành chính trong việc độc quyền tài nguyên mà sau này có thể được tái phân phối, thông tin có xu hướng được chuyển theo trục dọc giữa các cơ quan nhà nước và hiếm khi được chuyển tải giữa các cơ quan với nhau.[25] Về mặt lý thuyết, điều này có nghĩa là lãnh đạo cấp cao tiếp cận được nhiều thông tin hơn cấp dưới. Tuy nhiên, trên thực tế, khác biệt này thường chỉ là ảo tưởng, vì quan chức mọi cấp nhanh chóng học được việc cần thiết phải giấu cấp trên dữ liệu vào một số thời điểm và phóng đại chúng vào một số thời điểm khác nếu như họ muốn đạt chỉ tiêu, thêm nhân sự, ngân sách lớn hơn và được thăng tiến.[26] Vì vậy, khi báo cáo tổng kết tới được các nhà hoạch định chính sách tại Hà Nội thì thông tin trong đó thường đã lỗi thời, không đầy đủ, và/hoặc không hoàn toàn chính xác.
Không có gì lạ, điều này dẫn đến hiện tượng là các chính sách hình thành ở thủ đô dựa trên cơ sở các báo cáo này thường ít hoặc không có quan hệ gì với thực hành ở nông thôn, như ta đã rõ trong Đợt Bốn và Đợt Năm của cải cách ruộng đất. Sự cách biệt này tồn tại trong nhiều thập kỷ và tạo ra một diễn ngôn đổ lỗi bao quát hơn; diễn ngôn này vạch rõ nguồn gốc những vấn đề đặc trưng cho cuộc sống đời thường trong thời kỳ thực hiện cũng như xóa bỏ chủ nghĩa xã hội nhà nước nằm ngoài tiến trình hoạch định chính sách. Vì vậy, chính sách ở cấp trung ương, một khi đã thiết lập, thường không được phép chỉ trích công khai. Nhưng việc thực thi sau đó thì không phải như vậy. Điều này giúp giải thích tại sao rất nhiều tài liệu, đặc biệt những văn kiện được ban hành trước khi nổ ra cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ Hai, lại đổ “khuyết điểm”, “sai lệch” và “lỗi lầm” xảy ra trong quá khứ gần đó cho cán bộ cấp dưới. Tuy nhiên, phần nào do thứ ngôn ngữ hô hào được sử dụng, các văn kiện này thất bại trong việc cung cấp đủ chi tiết hoặc chỉ dẫn cụ thể để tránh việc cả ba vấn đề đó tái diễn trong tương lai gần.[27]
Thứ hai, những vấn đề này, như tôi đã chỉ ra trước đó, khiến các nhà làm kế hoạch muốn biến nông thôn trở thành “dễ đọc” hơn và do đó dễ uốn theo “chỉ đạo chính phủ từ xa” qua các mẫu được chuẩn hóa, qua việc áp dụng chỉ số thống kê thống nhất, kế hoạch báo cáo cố định, v.v… kể từ cuối thập niên 1950 trở đi. Điều này giúp các nhà hoạch định “thấy” được vấn đề theo nghĩa mà James Scott phát triển, nhưng nó cũng có nghĩa là các khía cạnh xã hội, kinh tế và hành chính khác trong cuộc sống vuột khỏi tầm nhìn hẹp của đảng/nhà nước.[28] Điều này cho phép một số thực hành bất hợp pháp được nở rộ – bao gồm cả những thử nghiệm không được phép, chẳng hạn như việc giao khoán của hợp tác xã nông nghiệp đã điều chỉnh chính sách hiện hành để đáp ứng nhu cầu địa phương.[29] Để đối lại, các nhà hoạch định chính sách giới thiệu một cơ chế kiểm tra mới, nhưng chúng chỉ giúp tinh luyện các thực hành này thay vì xóa bỏ chúng; điều này dẫn đến việc ngày càng nhiều đội kiểm tra từ bên ngoài được sử dụng nhằm xác minh dữ liệu mà cán bộ cấp dưới nộp lên cấp trên, đánh giá xem chúng có phù hợp với chính sách hiện hành hay không.[30]
Thứ ba, những chuyến đi kiểm tra này về bản chất không nhằm mục đích trừng phạt; chúng cũng không bắt đầu với sự nổi lên của nền kinh tế tập trung, mặc dù chúng trở nên thường xuyên hơn kể từ thời điểm này. Nhiều chuyến đi có nhiệm vụ nghiên cứu, và kết quả thu được, thường có ảnh hưởng đáng kể tới chính quyền hiện hành. Chẳng hạn, các đội kiểm tra được gửi về các vùng giải phóng ở tỉnh Nghệ An tiến hành điều tra kinh tế xã hội mở rộng trong năm 1951 và 1952. Dữ liệu thực địa thu được từ những địa điểm này được sử dụng để xây dựng chính sách đồng nhất về thuế nông nghiệp, tiêu chuẩn để phân biệt các giai cấp khác nhau, và các thủ tục cần thiết khác để tiến hành cải cách ruộng đất, bắt đầu vào năm sau đó.[31]
Mặc dù mô hình áp dụng “kiểu mẫu” địa phương lên toàn quốc để các nơi khác bắt chước như một phần của phong trào quần chúng vẫn còn hiển lộ cho đến tận hôm nay, nhưng các tuyên bố về chính sách hiếm khi thừa nhận tiến trình này thực sự đòi hỏi những gì.[32] Việc bỏ sót đó một mặt giúp củng cố các tự sự mô tả đảng như nhân tố chính cho đoàn kết và tiến bộ trong xã hội Việt Nam, mặt khác lại nhấn mạnh sự chi phối của chính trị đời thường trong việc chuyển đổi chính sách.[33] Nhưng, như những nhận xét của tôi ở phần trên đã gợi ý, cả hai cách hiểu này không nhất thiết loại trừ nhau. Điều này có nghĩa là cách lập luận từ lâu nay về vấn đề này và những giả định đưa đến những lập luận đó cần bị từ bỏ để nhường chỗ cho những nghiên cứu tinh tế hơn, xem xét phê bình việc vì sao có nhiều tường thuật về “điều xảy ra” và những tường thuật đó được kể như thế nào, cũng như những tường thuật “kể điều người ta nói lại là đã xảy ra” hội tụ trong một số trường hợp và khác biệt trong những trường hợp khác.[34]
Để kết luận, những thay đổi lớn về chính sách đã từng và vẫn còn là qui tắc, phần nào là vì những thay đổi này cho phép đảng/nhà nước thể hiện nó như một thế lực rõ ràng trong đời sống “tư” cũng như “công”.[35] Vì lý do này, ta không nên xem các văn kiện liên quan đến chính sách được xuất bản trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập như những nguồn độc lập có thể hiểu riêng rẽ theo chính chúng. Thay vì vậy, chúng ta nên xem các văn kiện này như can thiệp thời hiệu vào các tranh luận đang diễn ra cả bên trong lẫn bên ngoài đảng/nhà nước về chỉ đạo đúng đắn.[36] Do đó, các văn kiện trong tuyển tập được xuất bản này, cũng như các phòng lưu trữ mà từ đó chúng được rút ra, đã thiết lập những vị thế đặc quyền, nơi “sự thực” liên quan đến chính quyền hiện hành không chỉ đơn giản được tìm thấy, mà còn được chế tạo ra.[37]
__________
Ken MacLean là Assistant Professor tại Viện Phát triển Quốc tế và Thay đổi Xã hội tại Đại học Clark. Ông là tác giả của “In Search of Kilometer Zero: Digital Archives, Technological Revisionism, and the Sino-Vietnamese Border,” được in trong Comparative Studies in Society and History 50, số 4 (208): 862-894. Hiện ông đang hoàn thành cuốn sách nghiên cứu về những đề tài được đề cập tới trong tiểu luận này.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol.5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Hoài Phi
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Cũng có thể đưa ra lập luận tương tự về “nhà nước”. Chẳng hạn, xem Michel-Rolph Trouillot, “Anthropology of the State in the Age of Globalization: Close Encounters of the Deceptive Kind,” Current Anthropology 42, no.1 (2001): 125-138; James Ferguson & Akhil Gupta, “Spatializing States: Toward an Ethnography of Neoliberal Governmentality,” American Ethnologist 29, no.4 (2002): 981-1002; Timothy Mitchell, “Society, Economy, and the State Effect,” trong State/Culture: State-Fomation after the Cultural Turn, ed. George Steinmetz (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1999), 76-97. Giá trị của cách tiếp cận như vậy trong bối cảnh Việt Nam vượt ngoài phạm vi tiểu luận này, nhưng để biết về thảo luận liên quan, xem Nguyễn-võ Thu-hương, The Ironies of Freedom: Sex, Culture, and Neoliberal Governance in Vietnam (Seatle: University of Washington Press, 2008): 65-93.
[2] Phỏng vấn vô danh với Trương Tấn Sang, “Toàn Tập Văn Kiện Đảng là bộ sách vô cùng quý giá”, Vietnam Net, 31 tháng 10, 2007. http://vietnamnet.vn/chinhtri/2007/10/752233/ (truy cập ngày 18 tháng Hai, 2010); Hương Giang, “Ra mắt Văn Kiện Đảng Toàn Tập”, Việt Báo 27 tháng Chín, 2007. http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ra-mat-Van-kien-Dang-toan-tap/45255892/157/ (truy cập 18 tháng Hai, 2010).
[3] Cũng có thể nói như vậy với nội dung được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Ví dụ, các tập tài liệu về địa chủ từ mười ba tỉnh khác nhau, là mục tiêu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn 1955-1956 sau này được chuyển về Hà Nội, nhưng lại được bảo quản tại các phòng lưu trữ ở thành phố tách biệt với các tài liệu khác về cải cách ruộng đất của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Xem Hồ Văn Quýnh, Phòng lưu trữ ủy ban hành chính thành phố Hà Nội (1954-1975): Nguồn lịch sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô. (Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học, Hà Nội, 1995), 33-49.
[4] Trước năm 2006, các nhà nghiên cứu muốn được xem tài liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III phụ thuộc vào may mắn, vào sự hợp tác của nhân viên lưư trữ, và vào một danh sách mà Ben Kerkvliet đã tạo ra và cập nhật trong nhiều năm, trong đó bao gồm mục lục và các phông mà các nhà nghiên cứu khác đã được phép tiếp cận. Nhưng thiếu một chỉ dẫn chính thức, rất khó xác định xem tài liệu nào thực sự tồn tại, và việc đoán được nên yêu cầu tài liệu nào lại còn khó hơn. Việc ấn hành chỉ dẫn vào năm 2006 đã cải thiện tình hình này rất nhiều. Xem Sách chỉ dẫn các phông lưu trữ bảo quản tại trung tâm lưu trữ quốc gia III. Hà Nội: École française d’Extremê-Orient và Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, 2006).
[5] Michel-Rolph Trouillot, Silencing the Past: Power and the Production of History (Boston: Beacon Press, 1995), 26; Về thảo luận liên quan, xem Ann Stoler, Along the Archival Grain: Epistemic Anxieties and Colonial Common Sense (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2009); Sherry Ortner, “Resistance and the Problem of Ethnographic Refusal” trong The Historic Turn in the Social Sciences, ed.Terence McDonald (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1996), 281-304.
[6] Việc tiếp cận ở các nước (từng là) xã hội chủ nghĩa dễ hơn nhiều, kể cả ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Xem Beatrice Barlett, “A World-Class Archival Achievement: the People’s Republic of China Archivists’ Success in Opening the Ming-Qing Central-Government Archives, 1949-1998,” Archival Science 7, no.4 (2007): 369-390; William Kirby, “Archives and Histories in Twentieth Century China,” trong Archives, Documentation and Institution of Social Memory, eds. Francis X. Blouin, Jr., & William G. Rosenberg (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2006), 436-489.
[7] Cả “đảng” lẫn “nhà nước” đều không thể được hiểu một cách chính xác như những thực thể mạch lạc có suy nghĩ và hành động như người. Tuy nhiên, tôi vẫn sử dụng thuật ngữ này ở đây, bao gồm cả hình thức kết hợp phi chính thống (đảng/nhà nước) như một bản chất luận mang tính chiến thuật nhằm báo hiệu những trường hợp mà sự thống nhất thể chế của chúng được giả định là tồn tại trên bình diện tu từ. Xem Ken Maclean, “The Arts of Disclosure: Peasant-Bureaucrats, Historiography, and State Socialism in Viet Nam” (Luận án Tiến sĩ, Đại học Michigan, Ann Arbor, 2005), xv-xx.
[8] Để biết về tổng thể, xem Nguyễn Văn Thâm và Nghiêm Kỳ Hồng, Những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn soạn thảo văn bản và công tác văn thư – lưu trữ. (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001), 7-9.
[9] Tổng cục Thống kê, Lịch sử ngành thống kê Việt Nam (1946-2006). (Hà Nội: Thống kê, 2006), 250.
[10] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác lưu trữ từ năm 1945 đến năm 2000” (Luận án Tiến sĩ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2004), 40; Dương Văn Khảm, “Lưu trữ Việt Nam: Một thời kỳ đáng nhớ” trong blog cá nhân Lưu trữ, Lịch sử, 13 tháng Tư năm 2009. http://my.opera.com/duongvankham/blog/show.dml/3146312 (truy cập 15 tháng Hai, 2010).
[11] Chẳng hạn, xem Florence Yvon, “The Construction of Socialism in North Vietnam: Reconsidering the Domestic Grain Economy, 1954-1960,” Southeast Asia Research 16, no.1 (2008): 43-84; Balazs Szalontai, “Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955-1956,” Cold War History 5, no.4 (2005): 395-426; Edwin Moise, Land Reform in China and North Vietnam (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1983).
[12] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, 167-176; Maclean, “The Arts of Disclosure,” 76-186.
[13] “Nghị định số 527-TTG ngày 2 tháng 11 năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bản Điều lệ Quy định chế độ chung về công văn giấy tờ ở các cơ quan”
www.archives.gov.vn/content/law/Lists/Document%20Law/Attachments/461/ND527TTg.pdf (truy cập 12 tháng Hai, 2010).
[14] James Scott, Seeing Like a State: How Certain Conditions to Improve the Human Condition Have Failed (New Haven: CT: Yale University Press, 1998), 3, 15.
[15] Nikolas Rose & Peter Miller, “Political Power beyond the States: Problematics of Government,” British Journal of Sociology 43, no.2 (1992): 173-205. Về tổng quan những thay đổi này, xem MacLean, “The Arts of Disclosure,” 199-204.
[16] Patricia Pelley, Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past (Durham, NC: Duke University Press, 2002), 17-69.
[17] “Thông tư số 259-TT/TƯ ngày 8 tháng 9 năm 1959 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hướng dẫn một số điểm về công tác lưu trữ công văn, tài liệu đã nhấn mạnh”, Trung tâm Lưu trữ Thành phố Hải Phòng. http://luutruhaiphong.ath.cx/trangchu/upload/thongtri.pdf (truy cập 16 tháng Hai, 2010). Cũng xem Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 28.
[18] Ý nghĩa và tác dụng của công tác văn thư – lưu trữ. (Hà Nội: Phòng Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, 1961), 6.
[19] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 37.
[20] Dương Văn Khảm, “Lưu trữ Việt Nam,” 1. Tiến trình này trùng hợp với nghị quyết của Bộ Chính trị thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử dưới sự chỉ đạo của Trường Chinh. Xem “Nghị quyết số 41 NQ-TƯ ngày 21 tháng 1 năm 1962 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về Ban Nghiên cứu Lịch sử”. Để biết chi tiết, xem Patricia Pelley, “Writing Revolution: The New History in Post-colonical Viet Nam” (Luận án Tiến sĩ, Đại học Cornell, 1993).
[21] “Chỉ thị 24-TTg ngày 2 tháng 4 năm 1964 của Thủ tướng Chính phủ”, được trích dẫn trong Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 52.
[22] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 41. Nguyễn Lương Bằng có các hoạt động liên quan đến đảng từ thời Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1925); ông tiếp tục giữ một số chức vụ quan trọng trong đời chức nghiệp của mình, như làm đại sứ ở Liên Xô (1952-1956), tổng thanh tra chính phủ (1956), bộ trưởng tài chính, tổng giám đốc ngân hàng quốc gia, và phó chủ tịch nước (1969-1979).
[23] Nghiêm Kỳ Hồng (2004), 43; Nguyễn Lệ Nhung, “Tài liệu lưu trữ Đảng và công tác nghiên cứu: Biên soạn lịch sử” trêm blog cá nhân Lịch sử và Sử liệu học, ngày 8 tháng Mười năm 2007, http://my.opera.com/tieuboingoan/blog/show.dml/1394194 (truy cập ngày 18 tháng Hai, 2010). Để biết thêm chi tiết về việc này cũng như những nỗ lực khác, xem Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam; ra đời năm 1969, tạp chí này vẫn là một trong những diễn đàn chủ chốt cho những thảo luận như vậy.
[24] Chẳng hạn, xem Nguyễn Văn Thâm và Nghiêm Kỳ Hồng, Những văn bản chỉ đạo, 604-610.
[25] Katherine Verdery, National Ideology under Socialism: Identity and Cultural Politics in Ceausescu’s Romania (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1991), 74-97.
[26] Trong các cuộc phỏng vấn, những người cung cấp thông tin cho tôi đề cập tới các thực hành này là “chạy theo thành tích”.
[27] Để biết về các thảo luận liên quan, xem Alexei Yurchak, “Soviet Hegemony of Form: Everything Was Forever, Until It Was No More,” Comparative Studies in Society and History 45, no.3 (2003): 480-510. Trong khi Yurchak nhấn mạnh vai trò mà những thực hành này đã đóng trong sự sụp đổ bất ngờ của chủ nghĩa xã hội nhà nước ở Liên Xô, tôi lại muốn lưu ý đến sự nổi lên của chúng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[28] Scott, Seeing Like a State.
[29] Benedict Kerkvliet, The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants Transformed National Policy (Ithaca, NY: Cornell University Press, 2006).
[30] MacLean, “The Arts of Disclosure,” 240-332. Những thực hành như vậy khá phổ biến tại các nhà nước xã hội chủ nghĩa khác. Chẳng hạn, xem Andrew Kipnis, “Audit Cultures: Neoliberal Governmentality, Socialist Legacy, or Technologies of Governing?” American Ethnologist 35, no. 2 (2008): 275-289.
[31] Tổng cục Thống kê, Lịch sử ngành Thống kê Việt Nam, 56-57.
[32] MacLean, “The Arts of Disclosure,” 359-376.
[33] Benedict Kerkvliet, “Rural Society and State Relations” trong Vietnam’s Rural Transformation, eds Benedict J. Tria Kerkvliet & Douglas J. Porter (Bolder: Westview Press, 1995), 65-96.
[34] Trouillot, Silencing the Past, 2.
[35] Ann Anagnost, “The Politics of Ritual Displacement” trong Asian Visions of Authority: Religion and the Modern States of East and Southeast Asia, do Charles Keyes, Lauren Kendall & Helen Hardacre biên tập (Honolulu: University of Hawai’i Press, 1994), 222-223.
[36] Ken MacLean, “Manifest Socialism: The Labor of Representation in the Democratic Republic of Vietnam (1956-1959),” Journal of Vietnamese Studies 2, no.1 (winter 2007): 27-79.
[37] Ann Stoler, “Colonial Archives and the Arts of Governance,” Archival Science 2, số 1-2: 87.
Bản tiếng Việt đăng lần đầu trên talawas, 3.11.2010.
No comments:
Post a Comment