Đông Hiến dịch
Phần 5
Báo Văn: từ mồng 10 tháng Năm năm 1957 đến 17 tháng Giêng năm 1958
Tại các buổi họp diễn ra trong hai ngày 25 và 26 tháng Tư năm 1957, ban chấp hành Hội Nhà văn thông qua quyết định thành lập một nhà xuất bản và tuần báo Văn. Tờ báo bắt đầu phát hành khoảng bốn tháng sau khi các ấn phẩm Nhân văn – Giai phẩm bị đóng cửa, và do hai nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng trong giai đoạn Pháp thuộc là Nguyễn Công Hoan và Nguyên Hồng điều hành. Cả hai đều là những trí thức có bề dày tham gia cách mạng và không viết lách gì trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm.[1]
Số đầu tiên của Văn ra ngày mồng 10 tháng Năm năm 1957, đăng truyện, thơ, phê bình văn học, hồ sơ văn học, thông báo và tin tức trong ngành. Trên những trang báo Văn, độc giả có thể tìm thấy mục bình luận chính trị, những bài thơ hoặc biếm họa rất cay nghiệt, chủ yếu đả kích “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đứng đầu là Ngô Đình Diệm”. Tuy nhiên, cùng với những bài lớn tiếng chống Mỹ, ca ngợi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thỉnh thoảng cũng có xuất hiện những bài ít ồn ào hơn, dưới những hình thức thận trọng và tinh vi, nêu lên những băn khoăn, hoặc chỉ trích, về thế giới quan Mác-Lê của chế độ và chương trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.[2]
Dù cộng tác chặt chẽ hơn với nguyệt báo văn học và nghệ thuật theo đường lối bảo thủ, Tạp Chí Văn nghệ, Xuân Diệu cũng thỉnh thoảng viết bài cho Văn. Một nghiên cứu về các bài ông viết cho tờ báo này cho thấy, sau hai bài diễn văn sôi nổi chiêng trống phụ họa cho chính sách văn học của chế độ, bản thân Xuân Diệu vẫn dao động qua lại giữa những chủ đề lãng mạn và cách mạng, cố gắng tìm sự dung hòa nghệ thuật và đôi khi không tuân thủ những yêu cầu mà ông đang tham gia quảng bá. Bài đầu tiên ông gửi đăng trên tờ báo này là bài thơ “Gió”, đăng trên số ba (ngày 24 tháng Năm năm 1957):
Gió
Gió về như mưa tốiLá giậy như lá điÀo ào tiếng sóng vỗKhông gian có việc gì? Gió gió gió rào ràoTrăng trăng trăng chấp chớiTrời tròn như buồm căngTất cả lên đường mới. Hồn ta cánh rộng mởĐôi bên gió thổi vàoNghĩ những điều hớn hởNhư trời cao, cao, cao.Bài “Gió” đã đáp ứng được những yêu cầu văn học của chế độ đến mức nào? Như chúng ta đã biết, Xuân Diệu đã giải thích chi tiết nhiều nội dung của các yêu cầu đó trong hai bài diễn văn hùng biện. Tuy nhiên, so với Xuân Diệu, bài luận về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa do một nhà lý luận của đảng tên là Hồng Chương viết (đăng trên các số tháng Sáu và tháng Bảy năm 1957 của tạp chí Học Tập) đã đưa ra một cái nhìn chi tiết hơn và có thẩm quyền hơn về vấn đề này.[3] Tổng kết lại những ý quan trọng nhất, bài viết của Hồng Chương nêu ra bốn yêu cầu chính đối với một tác phẩm văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Một là, tác phẩm phải “biểu hiện tính chiến đấu và tính giai cấp của giai cấp công nhân một cách rõ rệt”. Hai là, phải “biểu lộ tinh thần lạc quan cách mạng của giai cấp đang lên và lòng tin tưởng sắt đá vào thắng lợi của nhân dân lao động và tương lai xã hội chủ nghĩa”.[4] Ba là, tác phẩm “phải miêu tả hiện thực một cách chân thật và cụ thể lịch sử”. Và bốn là, phải “…miêu tả hiện thực trong quá trình phát triển cách mạng của nó”. Khi đáp ứng được bốn yêu cầu trên trong sáng tác, nhà văn không chỉ miêu tả được hiện thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực đó.[5] Nhà văn phải miêu tả cuộc sống của “con người mới” trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa và hướng đến một ngày mai tươi sáng hơn.[6]
Bài thơ “Gió” của Xuân Diệu có một âm hưởng lạc quan và có hướng đến một cái mới (con “đường mới”). Nhưng bài thơ không xác định giai cấp và không có một thông tin nào về không-thời gian cụ thể, tức là không có tính “cụ thể lịch sử”, vì bất kỳ một xã hội nào trên trái đất này, vào bất kỳ thời điểm nào cũng có thể phấn khởi hồ hởi về một con “đường mới”. Chắc hẳn các lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam muốn thấy Xuân Diệu viết về “con đường của đảng” hay “con đường của Bác Hồ” hơn là “đường mới” chung chung – tức là lặp lại động tác tung hô sự lãnh đạo của họ như nhà thơ đã làm vô tội vạ trong tập Ngôi sao. Và thiếu sót này của tác giả không lọt qua mắt họ được. Chỉ vài tuần sau, “Gió” với bước thoái lui khỏi lịch sử cụ thể để co vào không thời gian vô định, đã đưa một Xuân Diệu đến một cuộc bút chiến lớn hơn về nội dung của báo Văn.
Những người chăm đọc báo Nhân Dân có thể dự đoán trước được cuộc tranh luận về tờ báo của Hội Nhà văn. Vào tháng Sáu, tờ báo đảng bắt đầu chạy những bài tả sự kết thúc của chính sách Trăm Hoa ở Trung Quốc và xu hướng bỏ cuộc ở khối xã hội chủ nghĩa đối với đường lối hóa giải ảnh hưởng của Stalin. Sự trùng hợp sít sao về thời gian giữa những thay đổi nói trên trong khối xã hội chủ nghĩa và vụ tranh luận về báo Văn là dấu hiệu cho thấy có thể sự kiện đó chính là hậu quả của tình hình nói trên. Một đoạn trong nhật ký của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cho thấy, có thể nỗi lo sợ hoang tưởng của Tố Hữu nói riêng và lãnh đạo đảng nói chung cũng là một yếu tố:
“Th. (Tố Hữu) thì chủ quan. Không chịu đi chơi ai. Khi anh em bảo nên đi, thì lại nói là không quen! Nghĩa là lãnh đạo chơ vơ mấy anh, sợ bóng sợ gió, ai cũng cho là Nhân văn, tự mình là bè phái mà luôn luôn cho người khác là bè phái! Họ hô hào đoàn kết, mà họ có đoàn kết đâu. Chỉ toàn là đối phó, (…)
Th. được nhà báo Hungarie nói: xem tờ báo Văn, nhà báo ấy thấy rõ y như ở Hung những ngày trước sự biến tháng 10. Cũng quay về cũ, cũng bôi đen. Vì thế Th. muốn kiểm điểm tờ tuần báo Văn về tư tưởng Nhân văn!”[7]
Báo Nhân Dân thường đưa tin về sự thâu tóm quyền lực của các lãnh đạo trong khối xã hội chủ nghĩa như một cách khẳng định nguyên tắc cơ bản về “thống nhất trong đảng”[8]. Sau đó không lâu, một bài báo nhan đề “Tuần báo Văn và con người thời đại” được đăng trên số tháng Bảy của Học Tập. Tác giả bài báo, Thế Toàn (tên thật là Trịnh Xuân An) phê phán kịch liệt các sáng tác tự do đã xuất hiện trên báo Văn tính đến thời điểm đó. Theo Thế Toàn, báo Văn “toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống” đến nỗi “không ăn nhập gì với cuộc sống, không dính dáng gì đến những con người vĩ đại và dũng cảm của thời đại chúng ta.” Tiếp theo, ông ta viết, “Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống” và kết luận rằng tờ báo đã “tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng”. Bên cạnh một số tác phẩm khác, Thế Toàn dẫn ngay bài thơ “Gió” của Xuân Diệu đăng trên số thứ ba của báo Văn để minh họa ý kiến của mình:[9]
Con người của thời đại chúng ta không phải là con người xa lánh cuộc sống, ngồi một góc phố nào đó để phân tích một món ăn (“Phở” của Nguyễn Tuân) phát hiện ra nhiều vấn đề quá “quan trọng” như xương với xẩu, như mũ phở, v.v… Cũng không phải người ngồi nghe gió ngắm trăng để thích thú riêng mình, rồi thốt lên:
“Gió gió gió rào rào
Trăng trăng trăng chấp chới…”[10]
Ngay trên các trang báo Học Tập này, tham vọng kiểm soát đời sống văn hóa ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của lãnh đạo đảng bắt đầu được bộc lộ rõ rệt, vì lập luận cốt yếu của Thế Toàn trong bài viết là bất cứ tác phẩm văn học nào không phục vụ đường lối của đảng đều đáng ngờ.[11]
Ban biên tập của báo Văn phản ứng rất nhanh trước những lời công kích này, cho chạy một loạt bài để bảo vệ uy tín của tờ báo. Được các nhà văn nổi tiếng như Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, Lê Minh, Tô Hoài, Nguyễn Tuân và Tế Hanh góp bài vở lên tiếng, các bài bảo vệ tuần báo Văn có xu hướng coi những lời công kích của Học Tập như những ý kiến đóng góp xây dựng của “đồng nghiệp” ở một “tờ báo bạn” – khiến phe công kích càng thêm giận dữ.[12] Trong số tháng Tám của Học Tập, Hồng Chương và Trịnh Xuân An cộng tác đăng một bài phản công dữ dội hơn, viện dẫn tới quan điểm siêu bảo thủ về văn nghệ của Trường Chinh – đương kim Ủy viên Bộ Chính trị. Bài báo lấy giọng mô phạm để rao giảng về ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong sáng tác văn nghệ:
“Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những thiên hướng lệch lạc đi trệch ra ngoài đường lối văn nghệ của Đảng. Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng. Thái độ đó rõ ràng là không lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ”.[13]
Thư ký tòa soạn tuần báo Văn, Nguyên Hồng, phản đối ngay giọng điệu quá nặng nề của những lời phê bình trên Học Tập. Ông chất vấn “Có phải vì giáo điều, sơ lược, công thức, nên mới có sự nhận thức và phê phán như thế? Có phải vì tác phong quan liêu, trịch thượng và cái lối đao to búa lớn nên mới có sự nhận xét như thế?” Nhà văn Nguyễn Tuân ủng hộ quan điểm của Nguyên Hồng: “Tôi cũng đồng ý với ông thư ký tòa soạn báo Văn về cái nhận xét này (rằng ông Hồng Chương và Trịnh Xuân An trịch thượng và đao to búa lớn. Thêm nữa, cá nhân tôi lại còn cảm thấy mấy ông đó đã làm cho người đọc phải hiểu rằng các ông đang lấy Đảng ra để “dọa” anh em viết bài báo”.[14]
Bài cuối cùng bênh báo Văn, “Cùng đặt một số vấn đề” do nhà thơ miền Nam Tế Hanh viết và đăng trong số ngày 1 tháng Mười một năm 1957 của báo Văn.[15] Cố gắng giữ vị trí trung gian, Tế Hanh điểm lại những ý chính trong bài phê bình của Học Tập: báo Văn không lành mạnh, xa rời thực tế và quần chúng, có biểu hiện của tư tưởng tư sản rõ rệt. Tiếp theo, ông đi sâu phân tích từng nội dung phê phán nêu trên, nêu các dẫn chứng từ báo Văn để mổ xẻ tính hợp lý của những lời công kích trên Học Tập.
Tế Hanh tổng kết bài viết với ba luận điểm chính. Một là, cộng tác viên của Văn phải được phép viết về quá khứ cũng như hiện tại, vì nhiều sự kiện của quá khứ cũng có tác dụng động viên mọi người tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện tại (Lúc đó, lãnh đạo đảng đang bắt đầu khó chịu vì quá ít nhà văn chọn đề tài nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện tại).[16] Hai là, khái niệm “con người mới” cần phải được hiểu rộng hơn, bao gồm cả trí thức chứ không chỉ có nông dân và công nhân. Tế Hanh nhận xét rằng, trên thực tế, một số người xuất thân từ tầng lớp tư sản có thể có tư tưởng vô sản hơn so với những người thuộc tầng lớp bị bóc lột. Ba là, các nhà phê bình cần phân biệt giữa nội dung một tác phẩm văn học với ý kiến cá nhân và phương pháp sáng tác của tác giả, có một số nhà phê bình cứ thấy viết ở ngôi thứ nhất thì cho là “tiểu tư sản” và “tư sản”. Theo Tế Hanh, những vấn đề cơ bản của cuộc sống như tình yêu và sự rung động trước cái đẹp tự nhiên thì không phân biệt biên giới giai cấp và vẫn tồn tại trong nước Việt Nam mới. Nói cách khác, mô hình đấu tranh giai cấp không thể giải thích được một số hiện tượng cốt yếu nhất trong cuộc sống. Ông dẫn một khổ thơ từ bài “Gió” của Xuân Diệu chỉ tả thiên nhiên thuần khiết làm ví dụ: “Tôi cũng cho là những câu thơ ấy không hại gì cả, mà lợi. Không lẽ chỉ giai cấp bóc lột mới ngắm trăng? Nhưng thử hỏi những câu thơ ấy thuộc về tư tưởng giai cấp gì? Tư sản ư? Vô sản ư? Tôi thấy trong văn nghệ vẫn có cái gì chung cho mọi giai cấp. Cái mà ta gọi là “nhân tính” ấy. Nhân tính khác giai cấp tính. Nhân tính thuộc về mọi giai cấp như: cái đẹp thiên nhiên, tình yêu trai gái”.[17]
Cũng trong số báo này của Văn, Xuân Diệu đăng một bài thơ cũng trên trang nhất, ngay bên dưới bài của Tế Hanh. Trớ trêu thay, khi Tế Hanh đang trích dẫn những câu thơ từ bài “Gió” để vận động cho tự do tư tưởng trong sáng tác, thì chính nhà thơ lãng mạn lại nghĩ đây là lúc khai quật lại và đăng một bài thơ cũ ông viết từ hồi tháng Bảy năm 1956, có đầu đề là “Chuyên chính”:
Chuyên chính
Yên lòng và vững chí!Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí,Chuyên chính của ta là thép cương kiênNhưng cũng là đôi mắt mẹ hiền;Chuyên chính giữ gìn cho hoa được nở,Chăn nhân ái của muôn nghìn hơi thở…Tôi đã từng làm thơ về gió về mây,Tôi làm thơ về tư tưởng đêm nay;Những kẻ cười ta làm thơ chính trị,Nếu hình thức có hơi non một tý,Họ vui mừng là ô vỗ tay ran:Mặc những kêu rêu lá rụng, hoa tàn,Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính.[18]Xuân Diệu đã viết bài “Chuyên chính” từ tháng Bảy năm 1956, khi phong trào giải hoặc Stalin đang bắt đầu mạnh lên ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có phải vì thế mà ông quyết định giữ lại không đăng bài thơ vào thời điểm đó. Nếu “Chuyên chính” thể hiện lòng tin của ông về văn học ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì sao ông lại không thể hiện và bênh vực cho quan điểm ấy trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm? Và vì sao, gần một năm sau đó, ông lại sáng tác bài thơ “Gió” sau khi đã viết những câu: “Tôi đã từng làm thơ về gió mây/Tôi làm thơ về tư tưởng đêm nay” trong bài “Chuyên chính” từ tháng Bảy năm 1956?
Một đoạn trong nhật ký của Trần Dần gợi cho ta thấy suy nghĩ của Xuân Diệu khi Tế Hanh trích dẫn “Gió” để dẫn chứng cho lập luận của ông rằng thơ hay có thể hấp dẫn mọi tầng lớp, giai cấp:
“Tế Hanh là người mới thò ra cái thuyết có “nhân tính”, bên cạnh “giai cấp tính”. Ông lấy X[uân]Diệu làm tỉ dụ, để chứng minh cái thuyết nguy hiểm ấy. Tức là bài “Gió! gió! gió!” của XDiệu. Đại ý ông T[ế]Hanh nói, ví thử bài cậu làm khá ra, thì mọi giai cấp đều thích, một thằng ăn cắp cũng sẽ đọc, thưởng thức “gió” ấy.
Tức thì ông XDiệu la ó lên rằng người ta [Tế Hanh] vu oan cho ông, người ta phủ nhận cái việc ông đã đứng trên lập trường công nhân mà xem xét vấn đề gió.”[19]
Trong cùng thời gian bài thơ “Chuyên chính” được đăng trên báo Văn, Xuân Diệu cũng viết hai bài báo khác trong nguyệt báo Tạp Chí Văn nghệ. Bài đầu tiên – “Thế nào là cái mới?” phê phán ý kiến của Văn Cao, một thành viên Nhân văn – Giai phẩm, về văn nghệ trong bài luận “Một vài suy nghĩ về thơ”.[20] Theo Xuân Diệu, Văn Cao “chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới,” thể hiện sự “tự huyễn diệu của sự kiêu căng cá nhân”. Ông cũng tỏ ra bất bình với ý cảm thông của Văn Cao đối với “những người biết thất bại mà dám mở đường”. Theo Xuân Diệu, không nên mở một con đường chông gai chỉ để thỏa mãn “anh hùng chủ nghĩa rẻ tiền”.
Cũng trong tháng Mười một, Xuân Diệu đang một bài báo nữa trên Tạp Chí Văn nghệ với tiêu đề “Những bước đường tư tưởng của tôi”.[21] Bài báo có một phần tự phê bình về quan điểm cũ của tác giả về nghệ thuật và cuộc sống, quan điểm từ thời ông còn nổi tiếng với Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Đã từng là đối tượng của phong trào chỉnh huấn và tham gia phong trào phê và tự phê hồi còn ở Việt Bắc, Xuân Diệu nắm rất vững các thông lệ của thể loại này. Lãnh đạo đảng muốn Xuân Diệu và các nhà văn khác đã thành danh từ thời trước cách mạng phải giải quyết hai vấn đề cơ bản.[22] Một là, họ cần thú nhận rằng bản thân rất khó cải hóa vì đã ngập sâu vào “chủ nghĩa bi quan buồn thảm và mộng mơ” của văn nghệ tư sản từ trước khi tham gia cách mạng. Như cách Xuân Diệu tả, họ đã “đắm mình trong vầng hào quang hư ảo của chủ nghĩa cá nhân”; họ đã “đắm mình trong nỗi bất hạnh và không nhìn ra con đường sáng”. Hai là, lãnh đạo đảng muốn thấy sự thể hiện nồng cháy của lòng biết ơn và tình yêu đối với đảng. Đối với Xuân Diệu, đó là “nghĩa sâu như bể, tình dài như sông”, một tình yêu “vàng đá”.[23]
Cũng như đợt tháng Bảy, dường như những đòn tấn công vào báo Văn vào tháng Mười một cũng là hậu quả của những biến đổi thời sự trong khối xã hội chủ nghĩa. Lần này, sự kiện gây nhiều ảnh hưởng trong khối là Hội nghị Quốc tế Mười hai Đảng Cộng sản và Công nhân họp tại Moscow, thường được coi là mốc kết thúc chính thức của phong trào giải hoặc Stalin. Nội dung tuyên bố chung trong lễ bế mạc (có sự tham dự của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và các nguyên thủ khác trong khối xã hội chủ nghĩa) được đăng trên báo Nhân Dân số ngày 23 tháng Mười một năm 1957, trong đó khái niệm “chủ nghĩa xét lại” được chính thức đưa ra. Đối với các nhà trí thức cách mạng, đa số xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản, đó là điềm báo trước một thời sóng gió sắp đến: “Ảnh hưởng của giai cấp tư sản và thành phần trí thức của giai cấp đó vẫn còn rõ nét. Vì vậy, giải quyết vấn đề ‘ai thắng ai’ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội còn cần thêm thời gian. Sự tồn tại dai dẳng của ảnh hưởng của tư sản là nguyên nhân bên trong của chủ nghĩa xét lại, biểu hiện bên ngoài của nó là sự đầu hàng chủ nghĩa đế quốc.”
Theo bài báo, “chủ nghĩa xét lại” được xác định có một phần hoặc tất cả những yếu tố sau: “Họ chống lại tính tất yếu lịch sử của cách mạng vô sản và của nền chuyên chính vô sản thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Mác-xít Lê-ni-nít, phủ nhận những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đòi từ bỏ những nguyên tắc căn bản của Lê-nin về xây dựng Đảng và trước hết là từ bỏ nguyên tắc dân chủ tập trung, đòi biến Đảng cộng sản từ một tổ chức chiến đấu cách mạng thành một cái gì giống như kiểu câu lạc bộ bàn cãi”.[24]
Ngay hôm sau, 24 tháng Mười một năm 1957, Nhân Dân mở màn trận công kích Văn bằng bài báo của Trúc Chi phê bình bài thơ “Lời mẹ dặn” của nhà thơ Phùng Quán.[25] Tiếp theo là một bài báo dài đăng trên năm số liền, dưới tiêu đề “Nhận rõ bản chất của báo chí tư sản và báo chí vô sản”.[26] Hòa nhịp với phong trào chống “xét lại” chung trong cả khối xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có vẻ nhận thấy đây là cơ hội có thể ra tay ép các trí thức bướng bỉnh vào khuôn khổ quyết liệt một lần cho xong. Không giống như đợt mở màn đầu hồi tháng Bảy, khi trận công kích chỉ giới hạn chủ yếu trên các trang báo Học Tập, lần này lãnh đạo đảng huy động hỏa lực của tất cả các phương tiện thông tin đại chúng sẵn có. Chẳng bao lâu sau, những người ủng hộ báo Văn sẽ nhận ra rằng, báo Nhân Dân, với số lượng phát hành hàng ngày khổng lồ, là cỗ máy trừng phạt hữu hiệu và đáng sợ hơn rất nhiều so với nguyệt san nặng về lý luận, tạp chí Học Tập.
Đến tận giữa tháng Chạp, khi các trọng pháo đang được tập kết vào vị trí để chuẩn bị đánh cho tờ báo Văn ngỗ ngược một trận quyết định, và sau khi Xuân Diệu đã nhiệt tình chứng minh sự chuyển hóa cách mạng của mình (đương nhiên không thể thiếu được những lời tự phê phán dòng thơ lãng mạn của mình) ông vẫn đăng một bài thơ tình, bài “Hỏi” trên tờ báo này của Hội Nhà văn lúc đó đang là mục tiêu bị đánh:
Hỏi
Một năm, thêm mấy tháng rồi,Thu đi, đông lại, bồi hồi sắp xuân.Gặp em, em gặp mấy lần,Tưởng quen mà lạ, tưởng gần mà xa.Ai làm cách trở đôi ta,Vì anh vụng ngượng, hay là vì em?Trăng còn đợi gió chưa lên,Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?Hằng ngày em nói bao lời,Với cha, với mẹ, với người chung quanh,Với đường phố, với cây xanhSao em chưa nói với anh một lời.Tương tư ăn phải miếng mồi,Đứng đi trên lửa, nằm ngồi trong sương.Phải duyên, phải lửa thì thương,Để chi đêm thẳm ngày trường, hỡi em![27]Dù bài “Gió” trước đó từng bị phê là có vấn đề, ít ra tác giả cũng mượn đề tài thiên nhiên sở trường của mình để bày tỏ một tình cảm chung, một tinh thần hồ hởi về tương lai. Trái lại, bài thơ đầy chất riêng tư “Gió” không hề thể hiện một cố gắng nào, dù là bề ngoài, của Xuân Diệu nhằm đáp ứng các yêu cầu về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của chế độ. Cách Xuân Diệu tả mối tình đơn phương trong bài thơ là một bằng chứng nữa cho thấy ông không hề xác định giai cấp của nhân vật, có thể coi như một sự phụ họa cho lập luận của Tế Hanh rằng có những tình cảm chung cơ bản của con người – ví dụ như tình yêu – thì ở giai cấp nào cũng giống nhau. Như vậy, bài thơ “Hỏi” lại không đáp ứng được yêu cầu về tính cụ thể lịch sử, không xác định rõ ràng không gian hay thời gian. Cũng như ở bài “Gió”, gần như tất cả các hình ảnh trong bài thơ này đều thuộc về thiên nhiên (gió, trăng, trời, lửa, ngày, đêm, cây). Không chỉ thiếu tính cụ thể về không, thời gian và giai cấp, “Hỏi” còn thiếu tính cụ thể về một vấn đề quan trọng nữa – giới tính. Không giống như đa số thơ tình Việt Nam, bài thơ này của Xuân Diệu không thể hiện những chi tiết lý tính để có thể xác định chắc chắn giới tính của nhân vật “em”, mà người đàn ông dẫn chuyện ở ngôi thứ nhất đang tương tư. Dù bài thơ không có một chi tiết nào gợi cho độc giả suy diễn về một mối tình đồng tính, cũng không hề có một chi tiết nào loại trừ khả năng nói trên. Tuy nhiên, một điều lạ là nếu xét theo tiêu chuẩn một tác phẩm văn học cách mạng, “Hỏi” hiển nhiên quá bất cập, nhưng bài thơ vẫn không bị giới chức văn hóa của đảng để ý trong khi họ đang săm soi báo Văn.
Nếu vào cuối năm 1957, các cộng tác viên của báo Văn vẫn có thể còn thắc mắc không biết sự thể sẽ đi về đâu, chắc chắn mọi nỗi phấp phỏng của họ sẽ “được” giải tỏa khi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ban hành Nghi quyết 30 “Về chấn chỉnh công tác văn nghệ” vào ngày mồng 6 tháng Giêng năm 1958. Nghị quyết kêu gọi hình thành một phong trào đấu tranh để “…quét sạch tư tưởng Nhân văn là biểu hiện của tư tưởng thù địch về mặt chính trị, đồng thời cũng là biểu hiện nghiêm trọng của quan điểm văn nghệ tư sản”. Một phần khác của nghị quyết phân định rõ trắng đen cho các hội viên Hội Nhà văn và tờ báo tuần của Hội, tờ Văn. “Riêng ở Hội Nhà văn, những cơ quan xung yếu (tuần báo Văn, ban biên tập, nhà xuất bản, câu lạc bộ, ban nghiên cứu sáng tác, ban văn học nước ngoài) mặc dù về hình thức do các đồng chí của ta lãnh đạo, song về thực tế đã bị một số phần tử xấu hoặc lạc hậu lũng đoạn”.[28] Nghị quyết 30 đã thúc đẩy báo Nhân Dân ra thêm nhiều đòn đánh nhằm vào báo Văn.[29] Hai tuần sau đó, lãnh đạo đảng ra lệnh đóng cửa tờ báo mới tròn chín tháng tuổi.
Như một tiếng nói yếu ớt cuối cùng của xã hội dân sự nhỏ bé còn tồn tại ở Hà Nội lúc bấy giờ, trong tư thế đã quy hàng, Xuân Diệu đăng một bài báo trên số tháng Giêng năm 1958 của Tạp Chí Văn nghệ. Dưới tiêu đề “Cái mới của văn học chúng ta”, bài báo đề cập đến câu hỏi tại sao đến giờ ở Việt Nam chưa có tác phẩm văn học cách mạng lớn, dù đã có rất nhiều nhà văn tài năng tham gia cách mạng từ năm 1945.[30] Theo Xuân Diệu, lý do là vì “các nhà văn trong thời đại chúng ta chưa trưởng thành, nên tác phẩm của họ cũng chưa chín”. Ông giải thích rằng các nhà văn cũ chưa chín vì họ chưa hoàn toàn chuyển hóa bản thân thành nhà văn mới. Nói cách khác, họ có vấn đề về quan điểm chính trị. Đối với những nhà văn trẻ mới bắt đầu sáng tác trong cách mạng (và vì thế, quan điểm chính trị của họ tương đối miễn nhiễm với tư tưởng tư sản và phong kiến), Xuân Diệu cho rằng chất lượng văn học của họ không cao là vì họ vẫn đang học cách viết. Đó là điều rất khó, nhất là đối với những nhà văn xuất thân từ các giai cấp xã hội trước đó chưa từng phải viết bao giờ. Xuân Diệu bổ sung tiếp: “Nhà văn ta có thể đặt vấn đề có tệ quan liêu, chứ không thể đặt vấn đề chính quyền dân chủ nhân dân có phải là một bộ máy quan liêu, có thể hỏi là: ‘Đảng làm thế nào lãnh đạo văn nghệ cho tốt?’ chứ không thể hỏi là: ‘Đảng có thể lãnh đạo văn nghệ được không?’ Nghĩa là nhà văn có thể đặt những vấn đề ra để cho nhân dân càng tăng cường cảnh giác, càng tự nghiêm khắc với những tệ lậu còn lại, càng thấy làm cách mạng không phải là đi ngao du, v.v… chứ không phải là buông thõng ra rất nhiều câu hỏi đặt rất sai để gieo rắc hoang mang vào quần chúng!”[31]
(Xem tiếp phần cuối sau chú thích phần 5)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Ngoại lệ duy nhất có lẽ là, theo thông tin chúng tôi đọc được từ bản thảo của cuốn sách sắp xuất bản do Peter Zinoman viết về nhà văn quá cố Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng có đóng góp bài vào số tưởng niệm nhà văn do NXB tư nhân Minh Đức phát hành. Tất cả những tác giả khác viết bài cho số kỷ niệm Vũ Trọng Phụng này đều là thành viên chủ chốt của Nhân văn – Giai phẩm.
[2] “Tinh vi” là từ Nguyễn Chương dùng để tả cách một số cộng tác viên báo Văn lồng ghép các giá trị “tiểu tư sản” vào trong tờ báo. Xem đánh giá của ông ta về báo Văn trong bài “Nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa chúng ta”, Học Tập, số 8, tháng 8/1957, 77.
[3] Để biết ý kiến chính thức của Đảng Lao động Việt Nam về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa được đưa ra trước đó một cách sơ lược, xem báo cáo đọc tại Đại hội Văn hóa Toàn quốc tháng 7/1948 của Trường Chinh. Bản báo cáo có tiêu đề Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam đã được in thành sách ít nhất ba lần. Trong đó, Trường Chinh giải thích rằng “tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa phải phản ánh các thực tế khách quan của xã hội. Nhưng trong các thực tế khách quan đó, phải nêu bật được “cá tính điển hình trong các hoàn cảnh điển hình” (Engels). Hơn nữa, nó phải làm cho người đọc thấy được nguyên nhân đằng sau sự phát triển tự nhiên của xã hội, xu hướng tiến hóa tự nhiên của sự vật”. Xem Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (Hà Nội: Dân Tộc [tháng Tám] 1949), 37. Một bài báo nữa bàn về chính sách văn học của chế độ là của Phan Nhân, “Bản chất hiện thực của văn nghệ và mấy vấn đề sáng tác của văn nghệ”, Nhân Dân, số 1079 & 1080, 19 và 20/2/1957.
[4] Hồng Chương, “Mấy ý kiến về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”, Học Tập, số 6, tháng 6/1957, 35.
[5] Sđd., số 7, tháng 7/1957, 34. Theo nội dung bài báo, hai yêu cầu cuối là nền tảng cơ bản của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Độc giả nào muốn tìm hiểu tận trung tâm vấn đề, xem Hồng Chương phân định rõ những phần nào của hiện thực phải được miêu tả, và miêu tả như thế nào trong hai trang 39 và 40 của bài.
[6] Sđd., 35.
[7] Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký, tập 3, 282.
[8] Xem “Tiếng nói chính nghĩa: Nhân dân Trung Quốc chống những phần tử phái hữu”, Nhân Dân, số 2010, 1/7/1957; “Các đảng phái dân chủ Trung Quốc kiên quyết đi theo chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc”, Nhân Dân, số 212. 3/7/1957. “Hội nghị toàn quốc Đảng công nhân xã hội chủ nghĩa Hung-ga-ri nêu rõ nhiệm vụ: Củng cố chế độ dân chủ nhân dân, kiên trì đấu tranh chống bọn phản cách mạng”, Nhân Dân, số 1213, 4/7/1956; “Đoàn kết, thống nhất là sinh mạng của Đảng”, Nhân Dân, số 1214, 5/7/1957.
[9] Theo Thế Toàn,các tác phẩm có vấn đề được đăng trên báo Văn là “Phở” của Nguyễn Tuân (số 1&2, 5 và 17/5/1957); “Bích xu ra” của Thụy An (số 2, 17/5/1957); “Gió” của Xuân Diệu (số 3, 24/5/1957); “Nhật ký người mẹ” của Lê Minh (số 4, 31/5/1957); “Yêu nhau” của Lê Đạt (số 6, 14/6/1957); “Xiếc khỉ” của Quang Dũng (số 7, 21/6/1957); và “Bóng tối” của Nguyễn Châu Viên (số 8, 28/6/1957).
[10] Thế Toàn, “Tuần báo Văn và con người thời đại”, Học Tập, số 7, tháng 7/1957, 53-58.
[11] Muốn biết lời bàn thú vị về hiện tượng này, xem Tô Hoài, Cát bụi chân ai, 87-89.
[12] Xem Nguyên Hồng, “Tuần báo Văn và một số bài của báo cần được nhận định như thế nào?”, Văn, số 15, 16/8/1957; Nguyễn Văn Bổng, “Nhận lại phương hướng qua việc phê bình tuần báo Văn”, Văn, số 20, 20/9/1957; Lê Minh, “Xây dựng con người thời đại”, Văn, số 21, 27/9/1957; Tô Hoài, “Góp thêm vài ý kiến về con người thời đại”, Văn, số 22, 4/10/1957; Nguyễn Tuân, “Phê bình nhất định là khó”, Văn, số 23, 11/10/1957; Tế Hanh, “Cùng đặt một số vấn đề xung quanh việc phê bình tuần báo Văn”, Văn, số 26, 1/11/1957.
[13] Hồng Chương và Trịnh Xuân An, “Phải hiểu thấu suốt đường lối văn nghệ của Đảng”, Học Tập, số 8, tháng 8/1957, 81.
[14] Nguyễn Tuân, “Phê bình nhất định là khó”.
[15] Tế Hanh, “Cùng đặt một số vấn đề”.
[16] Xem, ví dụ như bài của Huy Phương, “Chúng ta sẽ viết những gì?”, Văn, số 19, 13/9/1957. Theo Huy Phương, gần 70 phần trăm các chủ đề được viết liên quan đến cuộc kháng chiến. Ông viết, “Chỉ một số ít phần trăm các tác phẩm văn học ngày nay viết về các chủ đề liên quan tới cuộc sống mới hay cuộc sống thường nhật sau khi hết tiếng súng”.
[17] Tế Hanh, “Cùng đặt một số vấn đề”.
[18] Xuân Diệu, “Chuyên chính”, Văn, số 26, 1/11/1957.
[19] Trần Dần, Ghi: 1954-1960, (Westminster, CA: Literature and Arts Publishing House, 2001), 209.
[20] Xuân Diệu, “Thế nào là cái mới”, Tạp Chí Văn nghệ, số 6, tháng 11/1957; Văn Cao, “Một vài ý nghĩ về thơ”, Tạp Chí Văn nghệ, số 3, tháng 8/1957.
[21] Xuân Diệu, “Những bước đường tư tưởng của tôi”, Tạp Chí Văn nghệ, số 6, tháng 11/1957.
[22] Xem số “chỉnh huấn” của Văn nghệ, số 41, tháng 7/1953.
[23] Xuân Diệu, “Những bước đường tư tưởng của tôi”.
[24] “Bản tuyên bố của hội nghị các đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp tại Mát-scơ-va từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 11 năm 1957”, Nhân Dân, số 1354, 23/11/1957.
[25] Trúc Chi “‘Lời mẹ dặn’ thật hay không?”, Nhân Dân, số 1355, 24/11/1957.
[26] Canh Sinh, “Nhận rõ bản chất báo chí tư sản và báo chí vô sản”, Nhân Dân, số 1395-1399, 31/12/1957-4/1/1958. Bài báo thực chất là bản dịch bản tuyên bố chung của đại diện báo chí các nước trong khối xã hội chủ nghĩa họp tại Berlin ngày 6-7/12/1957. Một bài phê bình nữa là của Phượng Kim “Về một bức tranh đả kích”, Nhân Dân, số 1369, 8/12/1957.
[27] Xuân Diệu “Hỏi”, Văn, số 32, 13/12/1957.
[28] Nguyễn Duy Trinh, “Nghị quyết của bộ chính trị về việc cần chấn chỉnh công tác văn nghệ, 6/1/1958”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 19:1-10.
[29] Đặng Phò, “‘Đống Máy’, một truyện ngắn có nhiều lệch lạc”, Nhân Dân, số 1404, 12/1/1958.
[30] Xuân Diệu, “Cái mới của văn học chúng ta”, Tạp Chí Văn nghệ, số 8, tháng 1/1958.
[31] Sđd.
______________________
Phần cuối
Đông Hiến dịch
Từ Văn hồi tưởng về Nhân văn – Giai phẩm
Sự kiện đóng cửa báo Văn vào tháng Giêng dường như là màn khởi động của đợt tấn công dữ dội, diễn ra từ tháng Hai đến tháng Sáu năm 1958, nhằm vào những trí thức đã chỉ trích chế độ trên các ấn phẩm tư nhân trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Hơn nữa, dù đã đóng cửa, tờ báo Văn vẫn tiếp tục bị phê phán, dường như lãnh đạo đảng cố bêu riếu về mối quan hệ tội lỗi của tờ báo với các ấn phẩm ngang ngược của phong trào Nhân văn – Giai phẩm.[1] Vì thế, gần ba tháng sau khi lãnh đạo đảng ra lệnh đóng cửa tờ báo, ba biên tập viên của Văn đột nhiên đăng bài tự kiểm điểm trên báo Nhân Dân, cơ quan của đảng. Dưới tiêu đề chung “Các đồng chí ở báo Văn bắt đầu tiến hành tự phê bình”, báo Nhân Dân đăng liền một loạt bài tự nhận lỗi công khai (vì bị ép buộc?) của Nguyên Hồng, Tô Hoài và Tế Hanh.[2] Như xát thêm muối vào chỗ đau, sau khi đăng bài tự phê của nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng Nguyên Hồng, Nhân Dân chạy ngay một bài có đặt vấn đề chất vấn tính thành thật của nhà văn này.[3]
Xuân Diệu đóng góp vào đợt đánh Nhân văn – Giai phẩm mới với bốn bài tiểu luận đăng vào cao điểm của đợt tấn công thứ hai đầy uy lực này nhằm vào các thành viên phong trào: “Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ”, “Những suy nghĩ chung quanh vấn đề chỉnh huấn”, “Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt” và “Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao”.[4] Nội dung của bốn bài luận này gợi cho ta thấy vai trò của Xuân Diệu trong đợt tấn công này – dù tự nguyện hay được trên giao – là khẳng định quan điểm cho rằng lĩnh vực văn chương là một chiến trường tư tưởng. Ở mặt trận thơ ca, các cứ điểm chính phải san phẳng là các thành viên chủ chốt của Nhân văn – Giai phẩm: Lê Đạt và Văn Cao. Một địch thủ nguy hiểm nữa là Nguyễn Tuân, với bài tùy bút phá cách “Phở” và mối liên hệ với các nhà văn hiện thực phê phán. Xuân Diệu không phải là người khởi xướng đợt tấn công, nhưng ông giữ vai trò dẫn dắt với nhiệm vụ quy kết và bôi nhọ thơ của Nhân văn – Giai phẩm là “một luồng thơ chống đảng, chống chế độ”. Hơn nữa, ông đã đem uy tín khá dày của mình với tư cách là nhà thơ số một của Phong trào Thơ mới để đóng góp vào chiến dịch tấn công không thương tiếc nhằm vào các nhà thơ đã đứng lên đòi nới rộng tự do tư tưởng.
Thế nên Xuân Diệu đã nhận xét “cố giật gân người đọc như Trần Dần, huênh hoang như Lê Đạt, trá hình nhiều cách lập lờ giả trái như Hoàng Cầm”. Bài báo của Xuân Diệu tấn công Lê Đạt đầy sự mạ lỵ ác ý, thậm chí còn gọi Lê Đạt là “nhà văn cao bồi”. Trong bầu không khí chính trị đang ngập tràn tinh thần chống Mỹ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đây thực sự là cách gọi chụp mũ đầy ác hiểm. Xuân Diệu viết “Một anh cán bộ văn hóa đã bộc lộ rằng khi anh đọc thơ Lê Đạt cho một số thanh niên cao bồi ở Hà Nội thì họ mới nghe thoáng qua, chưa cần hiểu rõ từng câu, họ đã thích ngay. Cái máu cá nhân anh hùng rẻ tiền càn quấy ngổ ngáo của cao bồi đã gặp Lê Đạt là kẻ phát ngôn của họ”.[5]
Cũng với mạch tư duy này, Xuân Diệu gọi Văn Cao là “đại ca” ngụy quân tử, “giả dối như một con mèo, kín nhẹm như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám”, “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt,” “hiểm độc,” “một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái”. Ông chỉ trích “cái duy tâm chủ quan”, “cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc”, “cái tìm tòi lập dị”, “cái khinh thường quần chúng”, và “một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích” của Văn Cao. Cuối cùng Xuân Diệu cảnh tỉnh Văn Cao mà như có ý đồng thời tự căn dặn mình: “Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp”.[6]
Xuân Diệu cưới vợ
Khoảng cuối tháng Tư năm 1958, khi chiến dịch công kích các trí thức từng tham gia Nhân văn – Giai phẩm đang đà lên, ngôi nhà nơi Xuân Diệu ở chung với em gái và Huy Cận sống động hẳn lên nhờ sự có mặt của một thành viên nữ mới. Cô phóng viên báo Nhân Dân 29 tuổi đời này, tên là Bạch Diệp đã được ông tổng biên tập của tờ báo, Hoàng Tùng mai mối cho Xuân Diệu từ cuối năm 1957. Sau khi tìm hiểu Bạch Diệp mới được vài tháng, Xuân Diệu chọn ngày cưới vào cuối tháng Tư năm 1958. Gần đến ngày đó, cô gái nhiều lần cố nài Xuân Diệu ký vào giấy đăng ký kết hôn, nhưng ông luôn tìm cớ thoái thác việc xác nhận pháp lý này. Bạch Diệp cũng phát hiện ra rằng đó không phải là việc duy nhất mà Xuân Diệu tìm cách tránh né, chỉ một thời gian ngắn sau khi chuyển đến nhà chồng ở số 24 phố Cột Cờ. Nhiều năm sau, cô còn hồi tưởng lại những đêm, vào lúc phải làm chuyện vợ chồng, thì Xuân Diệu lại đột nhiên ra bàn làm việc ngồi và đắm mình vào việc viết lách. Tình trạng khó xử này kéo dài khoảng vài tháng, rồi cuối cùng Bạch Diệp cũng phải bỏ cuộc và dọn về nhà cũ với bố mẹ. Vì Xuân Diệu đã thận trọng không ký một giấy tờ pháp lý nào, và hiển nhiên là không có sự lo âu về sự ra đời của một kết quả bằng xương bằng thịt của cuộc hôn nhân, việc Bạch Diệp dọn ra khỏi 24 Cột Cờ là một sự kết thúc chóng vánh và dứt điểm của cuộc hôn nhân đầu tiên và cũng là cuối cùng của nhà thơ.[7]
Kết luận
Sau đợt công kích Nhân văn – Giai phẩm lần thứ hai, kéo dài từ tháng Hai đến tháng Sáu năm 1958, lãnh đạo đảng đã cho bắt những thành viên chủ chốt của phong trào, như Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, và Phùng Cung đi tù vài năm.[8] Ba người (Trương Tửu, Thụy An và Phan Khôi) bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội Nhà văn, và hai người khác (Trần Dần và Lê Đạt) bị đình chỉ ba năm. Hoàng Cầm và Hoàng Tích Linh bị cách chức khỏi ban chấp hành và những trí thức khác có đóng góp cho các ấn phẩm của phong trào đều bị cảnh cáo. Thoạt nhìn, có vẻ việc trừng phạt chỉ giới hạn trong việc xét xử tố tụng một số, còn chủ yếu là các biện pháp kỷ luật nội bộ (như khai trừ, đình chỉ, v.v…) do các cơ quan chủ quản tiến hành. Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại kết hợp những biện pháp trừng phạt này với hàng loạt biện pháp hành chính bổ sung, thường kéo dài trong nhiều năm, ví dụ như thuyên chuyển một số thành viên của phong trào ra khỏi thủ đô Hà Nội, về sinh sống ở vùng nông thôn xa xôi, nơi họ phải làm những công việc lao động chân tay và chịu sự giám sát liên tục của công an. Lãnh đạo đảng đã duy trì những biện pháp này, song song với việc hạn chế nhiều quyền dân sự và xã hội, đối với một số thành viên của phong trào trong gần ba thập niên (từ năm 1958 đến tận giữa thập kỷ 1980). Đối với một số thành viên Nhân văn – Giai phẩm, họ hàng, thậm chí bạn bè của họ còn bị kỳ thị dưới nhiều hình thức, như gặp trở ngại khi đi xin việc, đi học trong hàng chục năm.
Dù bị bầm dập, nhưng Xuân Diệu vẫn vượt qua những năm đầy sóng gió từ 1954-1958 một cách êm thấm, sự nghiệp cách mạng không hề bị sứt mẻ. Lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam không hề bắt ông phải đăng bản tự kiểm điểm ê chề như rất nhiều đồng chí, đồng nghiệp của ông từ những ngày đầu cách mạng (như Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tế Hanh, và Tô Hoài). Và, lẽ đương nhiên, vì ông không dính dáng gì đến phong trào Nhân văn – Giai phẩm – trên thực tế, lại còn là nạn nhân được ưa chuộng của những bài phê bình của họ nữa – nên Xuân Diệu tránh được hậu quả của những sự trừng phạt nghiêm khắc như các thành viên của phong trào phải hứng chịu. Còn về món nợ cũ là những lời chỉ trích cay nghiệt mà Xuân Diệu đã phải hứng chịu trên báo chí Nhân văn – Giai phẩm, ông chắc có thể thấy khuây khỏa vì giờ đây sự nghiệp của họ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi như trở về con số không tròn trĩnh.
Có điều, cũng giống như những thành viên Nhân văn – Giai phẩm, Xuân Diệu có động cơ phức tạp, với hàng loạt những suy tư về chính trị, chuyên môn và cá nhân, đôi khi trái ngược nhau. Rõ ràng là ông bán tin bán nghi với chính sách văn hóa của chế độ, nhưng ông vẫn nhiệt tình cổ vũ cho nó. Và những thay đổi đột ngột trong chính sách của đảng, để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình trong khối xã hội chủ nghĩa (ví dụ như phong trào giải hoặc Stalin, phong trào Trăm Hoa) khiến ông nhiều khi bị lố. Thực ra nhiều trí thức khác cũng bị lố như Xuân Diệu, ở một thời điểm nào đó trong lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những nghiên cứu gần đây đôi khi cho rằng Xuân Diệu là điển hình của năng lực cải hóa của cách mạng, với lập luận rằng lòng tin ở chủ nghĩa Mác-Lê là cơ sở của mối quan hệ giữa Xuân Diệu với Đảng Lao động Việt Nam và là yếu tố quyết định nghệ thuật cũng như tư tưởng của nhà thơ. Nhưng nếu nghiên cứu các bài viết và hành động của ông trong giai đoạn 1954-1958 một cách tỉnh táo, ta lại thấy hình như không phải vậy. Nhìn lại giai đoạn này, có ba yếu tố chính giúp giải thích quan hệ giữa Xuân Diệu và chế độ cách mạng.
Trước hết, uy tín và năng lực văn chương của ông khiến ông trở thành một nhân vật rất có giá trong con mắt của lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam. Trong lĩnh vực văn hóa, hiển nhiên là Xuân Diệu được đông đảo người dân Việt Nam, miền Bắc cũng như miền Nam, đánh giá là nhà thơ lớn. Nhà lý thuyết văn hóa hàng đầu của Đảng Lao động Việt Nam, Trường Chinh hẳn luôn tin rằng kiến thức của mình về chủ nghĩa Mác-Lê là cơ sở cho chỗ đứng quyền lực của mình trong lĩnh vực văn hóa, nhưng thực ra quyền lực của ông ta luôn xuất phát từ vị trí chính trị. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ít người để ý đến Trường Chinh nói gì về văn học nghệ thuật, ngoại trừ những thành viên của phong trào cộng sản. Thơ của Tố Hữu cũng có số phận tương tự. Vì các sáng tác của ông ta luôn được lãnh đạo đảng tung hô nhằm mục đích tuyên truyền, ông ta không bao giờ biết được liệu thơ mình có cạnh tranh được với Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Nguyễn Bính và nhiều ngôi sao khác của Phong trào Thơ mới từ thời trước cách mạng hay không. Trong năm tuần đầu của cuộc tranh luận về Việt Bắc, Xuân Diệu đã vô tình cho in cả hai loại bài phê bình chê và khen tập thơ khiến Tố Hữu có một ấn tượng thoáng qua về việc thơ của ông ta sẽ đứng ở đâu trong một thế giới không có đảng đỡ đầu. Và ông ta thấy bức tranh đó không mấy sáng sủa. Có lẽ những nhận xét vô tư trong năm tuần đó, cộng với những lời phê tiêu cực hơn trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm về khả năng làm thơ và lãnh đạo của mình đã ám ảnh Tố Hữu, một người vốn luôn thấy bất an, trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông ta (điều này giúp giải thích vì sao ông ta trù dập những thành viên Nhân văn – Giai phẩm một cách nghiệt ngã và hiểm ác đến vậy).[9] Do luôn bị ám ảnh về tính chính đáng, lãnh đạo đảng đánh giá cao nhất ở Xuân Diệu là những lời khẳng định công khai về năng lực lãnh đạo của đảng trong lĩnh vực văn hóa. Như chúng tôi đã cố gắng trình bày trong bài viết này, Xuân Diệu sẵn sàng viết bất cứ điều gì, hoặc lên án bất cứ ai (ngay cả chính bản thân) để ủng hộ đường lối văn hóa của đảng.
Hai là, không thể nghiên cứu về sự nghiệp cách mạng của ông mà không xem xét đến bản chất luyến ái đồng tính của Xuân Diệu. Theo hồi ký của Tô Hoài, nhà thơ của chúng ta đã bị đấu rất dữ vì tính lang chạ trong hai đêm chỉnh huấn hồi năm 1952. Cũng như tất cả những tội lỗi khác được đem ra mổ xẻ trong phong trào chỉnh huấn, bản tính luyến ái đồng tính của Xuân Diệu được quy kết nguyên nhân ở bản chất giai cấp (“tư tưởng tư sản xấu xa” của ông). Thế mà, dù đã phải chịu sức ép hết sức căng thẳng đến nỗi phải công nhận lối giải thích trên, Xuân Diệu vẫn tỏ ra không hề thay đổi quan điểm riêng rằng giai cấp là một chuyện, còn xu hướng luyến ái là chuyện khác. Dù được giáo hóa với chủ nghĩa Mác-Lê đến độ nào đi nữa, Xuân Diệu cũng không thể cải hóa thành một “con người mới xã hội chủ nghĩa” có đời sống luyến ái khác giới được.
Một điều mỉa mai là, khi quy kết bản chất luyến ái đồng giới về vấn đề giai cấp, lãnh đạo đảng (chắc có cả Tố Hữu, người phụ trách phong trào chỉnh huấn) đã thể hiện cho Xuân Diệu thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lê và cách mạng về cơ bản không giải quyết vấn đề kỳ thị xu hướng luyến ái đồng tính, có lẽ là mối băn khoăn lớn nhất trong đời của Xuân Diệu. Đảng Lao động Việt Nam chỉ đơn thuần dùng chủ nghĩa Mác-Lê để biện hộ cho định kiến xưa cũ về vấn đề này. Ngay cả những trí thức có tư tưởng cải cách của phong trào Nhân văn – Giai phẩm, với những khẩu hiệu hành động đầy tính nhân văn, cũng khoái trá khai thác mối quan hệ đặc biệt của Xuân Diệu với Huy Cận trong khi công kích giới lãnh đạo văn hóa. Xét trong bối cảnh này, chúng ta không thể không thắc mắc liệu có phải Xuân Diệu viết bài về “nhà thơ của nhân dân” Walt Whitman phần nào với động cơ muốn phủ định sự liên hệ giữa giai cấp với bản chất luyến ái đồng tính. Khả năng đó giúp giải thích sự chuyển hướng đột ngột trong phần cuối của bài viết, sau khi đã khai thác triệt để mọi thông tin để tạo căn cước vô sản cho Whitman, Xuân Diệu xoay sang trích dẫn một đoạn rất tình cảm và riêng tư trong bài thơ “Chia tay”, bài cuối cùng của tập Lá Cỏ.
Về mối quan hệ giữa nhà thơ và đảng, có thể bản chất luyến ái đồng tính luôn là mạch ngầm của mối lo tiềm ẩn ở Xuân Diệu và góp phần tạo nên nhu cầu thường trực là phải lấy lòng lãnh đạo đảng. Cảm giác bất an về vấn đề luyến ái đồng tính chắc đã ám ảnh ông nhiều trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, khi đột nhiên một luồng báo chí tự do nở rộ, vừa có thái độ đối nghịch với Xuân Diệu, vừa nằm ngoài tầm kiểm soát của ông. Có hai bài báo trong thời kỳ này cạnh khóe rất lộ liễu về bản chất luyến ái của Xuân Diệu, nhưng chưa đi xa đến mức phát biểu thẳng rằng Xuân Diệu là người đồng tính. Sự thận trọng cao độ của Xuân Diệu trong thời kỳ này có thể có một phần nguyên nhân từ nỗi lo sợ rằng bất kỳ một hành động phản ứng nào của ông cũng có nguy cơ kích động các thành viên Nhân văn – Giai phẩm, khiến họ có thể đánh trực diện vào bản chất đồng tính của ông, thậm chí lôi ra làm đề tài đàm tiếu công khai. Đây chắc là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của Xuân Diệu, vì không có dấu hiệu gì đảm bảo rằng, xét theo những quan niệm xã hội bảo thủ của họ, chế độ sẽ đứng về phía ông trong tình huống này. Cũng chính nỗi sợ bị chê cười là người đồng tính cũng có thể đã góp phần khiến Xuân Diệu quyết định tìm hiểu và cưới Bạch Diệp vào năm 1958. Hành động khăng khăng từ chối ký giấy tờ hôn thú và thái độ “thụ thụ bất thân” phản lãng mạn không kém đối với chuyện chăn gối trong thời gian chung sống khiến người ta có thể đặt câu hỏi liệu Xuân Diệu có bao giờ có ý định nghiêm túc với Bạch Diệp không?[10]
Yếu tố thứ ba ảnh hưởng tới sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu là ông luôn là người không có lý tưởng. Nghiên cứu kỹ các tài liệu giai đoạn 1954-1958 sẽ thấy rất nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng Xuân Diệu không hề tha thiết với tư tưởng chính thống của chế độ hay bất kỳ một tư tưởng nào khác. Chúng ta thấy điều này rõ nhất trong cách hành xử bất nhất đến bất bình thường của ông. Sau khi bị nhắc rằng phương pháp điều hành cuộc tranh luận về Việt Bắc lúc ban đầu (như một cuộc tranh luận thực sự) là không thể chấp nhận được, Xuân Diệu không hề thấy cắn rứt khi ngay lập tức đổi hướng và biến cuộc tranh luận thành một trò quảng cáo tập thể cho Tố Hữu. Như để chứng tỏ rằng mình đã học được bài học về tự do trao đổi ý kiến ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một tinh thần trao đổi mà ông đã khuyến khích trong những tuần đầu của cuộc tranh luận về Việt Bắc, ông lại biện minh giúp chế độ về tính chính đáng của quyết định tịch thu tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 vào tháng Hai năm 1957 bằng việc dịch bài diễn văn của nhà lãnh đạo văn hóa Liên Xô Nikolai Fadeyev. Tính bất nhất cũng được thể hiện trong sự khác biệt giữa một đằng là tuyên bố khẳng định như đinh đóng cột về quan điểm chính thống của đảng, và một đằng là thái độ nín thở chờ thời trước những xáo trộn trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Trong suốt năm tháng liền, từ ngày 17 tháng Năm đến tận ngày mồng 9 tháng Mười một năm 1956, một trong những nhà văn bút chiến lão luyện nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa im hơi lặng tiếng trước mọi vấn đề thú vị đang được bàn cãi sôi nổi trên báo chí. Ngoài ra, những nỗ lực hậu trường của Xuân Diệu nhằm dùng ảnh hưởng cá nhân trong đảng để vận động cho tác phẩm của mình - tập thơ cách mạng Ngôi Sao không thể coi là hành động của một người “đã trút bỏ gánh nặng của chủ nghĩa cá nhân”. Cũng tương tự như vậy là nỗ lực tái bản tập Thơ Thơ của ông vào đầu năm 1957 với mục đích cải thiện thu nhập, dù trước đó ông đã nhiều lần tự chỉ trích nặng nề những sáng tác cũ của mình.[11]
Xuân Diệu là một trong những người chủ chốt trong công tác cổ động cho phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng việc tuân thủ của bản thân ông đối với những nguyên tắc ông đang tham gia truyền bá thì rất thất thường – theo cách nói nhẹ nhất. Xem xét những bài ông đóng góp cho báo Văn trong năm 1957 sẽ thấy Xuân Diệu dao động liên tục giữa hai thể loại. Ban đầu là bài thơ vô hại, có tính tập thể “Gió”. Khi bị phê phán là dị mọ với “toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống”, “xa rời thực tế”, xa rời quần chúng – những người anh hùng của thời đại, Xuân Diệu đáp lại bằng bài “Chuyên chính”. Bài thơ thể hiện tình yêu với đảng này xuất hiện gần như đồng thời với bài luận “Những bước đường tư tưởng của tôi” của Xuân Diệu được đăng trên Tạp Chí Văn nghệ. “Những bước đường tư tưởng của tôi” hết lời ăn năn và lên án “tính cá nhân”, “tính bi quan” trong thơ lãng mạn của mình. Nhưng, đáng ngạc nhiên là chỉ một tháng sau khi tự lên án mình và đấu tố nhà văn, nhạc sĩ Văn Cao vì biểu hiện “cá nhân chủ nghĩa bế tắc”, Xuân Diệu lại sáng tác bài thơ tình “Hỏi”.
Chính vì không có lý tưởng nên Xuân Diệu không bị cuốn hút vào chương trình nhân văn của Nhân văn – Giai phẩm hay báo Văn. Chính vì lòng trung thành với đảng của Xuân Diệu không bắt nguồn từ sự dấn thân trong sáng theo tư tưởng Mác-Lê, ông hình như không trăn trở với những câu hỏi liệu chế độ có thực hiện đúng những điều mà lý tưởng đã hứa hẹn hay không, hay liệu có thể cải tổ được chế độ không. Xét theo khía cạnh khác, mọi người có thể suy luận rằng sự thờ ơ với phong trào Nhân văn – Giai phẩm là kết quả của lòng tin thực sự vào đường lối của đảng trong suốt một thập kỷ đi theo cách mạng. Tuy nhiên, sự thực là ông không hề viết một bài nào bênh vực cho đường lối ấy trước những đòn công kích của các thành viên phong trào Nhân văn – Giai phẩm trong suốt sáu tháng cuối năm 1956 là biểu hiện chứng tỏ rằng lý tưởng, có chăng, chỉ đóng vai trò rất nhỏ bé trong các tính toán chính trị của ông. Thực ra, không có gì lạ khi thái độ mập mờ và lưỡng lự của lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam trong nửa cuối của năm 1956 đã làm Xuân Diệu tịt ngòi suốt năm tháng. Ông không hề có ý tưởng riêng về chủ nghĩa Mác-Lê.
Rồi sang năm 1957, khi báo Văn bị đánh, ông không hề tìm cách bênh vực cho tờ báo như những nhà văn cách mạng lớn tuổi Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài và Tế Hanh đã làm. Câu trả lời của Xuân Diệu là bài thơ “Chuyên chính”. Như một đoạn nhật ký của Trần Dần đã ghi, Xuân Diệu nổi cáu khi Tế Hanh cố bênh vực bài thơ “Gió” trước những lời phê bình của tạp chí lý luận của đảng, tờ Học Tập (chắc Xuân Diệu sợ bị lôi cuốn vào một nhóm dám phản ứng lại lãnh đạo đảng). Ông cũng chưa bao giờ đăng một bài viết nào bày tỏ sự bất bình trước cảnh bạo lực của chiến dịch cải cách ruộng đất – dù điều đó là một mối quan tâm trọng yếu của các thành viên Nhân văn – Giai phẩm.
Như ta đã thấy trong các đoạn văn, bài văn đánh Nhân văn – Giai phẩm, nhà thơ đấu thẳng tay các thành viên của phong trào khi được yêu cầu. Một lần nữa, khả dĩ có cách giải thích khác rằng có thể sự thẳng tay của những đòn Xuân Diệu hạ thủ nhằm vào Nhân văn – Giai phẩm có nguyên nhân là sự gắn bó với đảng thông qua tư tưởng Mác-Lê, nhưng lập luận này không có cơ sở. Cách giải thích hợp lý hơn là Xuân Diệu hiểu được quyền uy tối cao của Đảng Lao động Việt Nam và sự thực là một trí thức làm phật ý lãnh đạo đảng không có chỗ đứng, thậm chí không thể tồn tại trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đã được cấp cho một căn biệt thự Pháp và được tạo điều kiện chung sống với Huy Cận, Xuân Diệu hiểu rằng chống lại lãnh đạo đảng thì sẽ bị mất rất nhiều thứ. Một lý do nữa không thể loại trừ để giải thích những đòn đánh ác nghiệt, quá tay của Xuân Diệu dành cho Nhân văn – Giai phẩm là động cơ trả thù. Trong các ấn phẩm đầy tính kích động của phong trào Nhân văn – Giai phẩm, nhà thơ lãng mạn vĩ đại Xuân Diệu bị đem ra bêu diếu, phơi bày các bằng chứng cho rằng ông là một kẻ giả nhân giả nghĩa. Điều này chắc đã làm Xuân Diệu nhức nhối, vì đối với ông, giá trị đặc biệt của mình đối với chế độ là uy tín.
Giai đoạn từ 1954 đến 1958 có vai trò đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tương tự như phong trào Trăm Hoa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Khi để cho tự do báo chí tái xuất hiện trong không khí phong trào hóa giải ảnh hưởng của Stalin, lãnh đạo đảng đã nhận diện được những ai trong giới trí thức bất mãn có gan thách thức quyền uy của đảng và yêu cầu cải tổ. Nói cách khác, họ nhận biết được những ai có khả năng tự phát làm lãnh đạo trong giới trí thức. Tuy nhiên, thông tin này không phải là ý định ban đầu của chủ trương mềm dẻo mà Đảng Lao động Việt Nam quyết định áp dụng với những thành viên bất mãn của giới trí thức trong năm 1956 (như đôi khi các nhà nghiên cứu đã kết luận tương tự về Mao Trạch Đông đối với phong trào Trăm Hoa). Ở Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam chỉ muốn thể hiện sự đồng điệu với những diễn biến tư tưởng ở Liên Xô và Trung Quốc mà thôi. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng cũng như nhau. Những ai thò đầu ra kêu gào cải tổ trong giai đoạn cuối năm 1956 cũng bị thanh trừng khỏi giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là dấu chấm hết cho mối lo về phản ứng của giới trí thức đối với chế độ trong suốt ba thập kỷ tiếp theo.
Đối với những quan chức văn hóa cốt cán như Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Hoài Thanh, và Nguyễn Đình Thi, quyết định của đảng cho báo chí tư nhân tự do tái xuất trong thời gian từ tháng Tám đến tháng Chạp năm 1956 là một trải nghiệm nhức nhối. Họ được biết qua phong trào Nhân văn – Giai phẩm rằng phần lớn trong giới trí thức coi họ là những kẻ tham nhũng, kiêu ngạo và bất tài. Đối với lãnh đạo đảng, họ được một bài học rằng kiểm soát giới trí thức không có sự trợ giúp của những quan chức văn hóa cốt cán đó sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Chế độ đã phải trả giá khi đem những người này ra làm mồi cho đội ngũ trí thức trong phong trào hóa giải ảnh hưởng Stalin. Rốt cuộc, phong trào Nhân văn – Giai phẩm giúp lãnh đạo đảng và những quan chức văn hóa này hiểu ra rằng họ cần nhau đến mức nào. Sự hợp tác trên cơ sở cùng có lợi này hiện vẫn còn là động lực cơ bản của đời sống trí thức ở Việt Nam.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Như Phong, “Góp ý kiến với các đồng chí có trách nhiệm ở báo Văn”, Nhân Dân, số 1432-1435, 9-12/2/1958.
[2] Nguyên Hồng, “Những khuyết điểm và sai lệch của tôi trong công tác tuần báo Văn”, Nhân Dân, số 1451, 3/3/1958; Tế Hanh, “Quan niệm siêu giai cấp của tôi về nhân tính và con người mới”, Nhân Dân, số 1463, 14/3/1958.
[3] N.D., “Để chuẩn bị một thời kỳ văn học, nghệ thuật phát triển tốt tươi hơn nữa”, Nhân Dân, số 1456, 9/3/1958.
[4] Xuân Diệu, “Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong thơ”, Tạp Chí Văn nghệ, số 10, tháng 3/1958; “Những suy nghĩ chung quanh vấn đề chỉnh huấn” trong Những bước đường tư tưởng của tôi (Hà Nội: Văn hóa, 1959), 145-146; “Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt”, Tạp Chí Văn nghệ, số 13, tháng 6/1958; Xuân Diệu, “Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao”, Tạp Chí Văn nghệ, số 14, tháng 7/1958.
[5] Xuân Diệu, “Những biến hóa của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Đạt”.
[6] Xuân Diệu, “Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao”.
[7] Lã Xưa, “Giải Mã Nghi Án Giới Tính của ‘Ông Hoàng Thơ Tình’ Xuân Diệu”, Đời Sống và Pháp Luật.http://www.doisongphapluat.com.vn/Story.aspx?lang=vn&zoneparent=0&zone=2&ID=3833 Truy cập ngày 5/5/2010.
[8] Một vài nguồn tin gợi ý rằng họ bị đi tù vì một chuyện không liên quan đến Nhân văn – Giai phẩm. Tuy nhiên, vì hồ sơ tư pháp và công an liên quan đến vụ này chưa bao giờ được công bố, nên giả thuyết này không được kiểm chứng.
[9] Để có ý tưởng về tính ác hiểm, xem “Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại: Nhân Văn-Giai Phẩm” của Tố Hữu, do chính Tố Hữu sưu tầm và in thành sách Bọn Nhân văn-Giai Phẩm trước tòa án dư luận (Hà Nội: Sự Thật, 1959), 22-36.
[10] Bạch Diệp sau này tái hôn và trở thành một trong những nữ đạo diễn điện ảnh nổi tiếng nhất Việt Nam.
[11] Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký tập 3: Nghệ sĩ và công dân (Hà Nội: Thanh niên, 2006), 282 (xem chú thích số 83).
No comments:
Post a Comment