Đông Hiến dịch
Phần 3
Hóa giải ảnh hưởng của Stalin ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Những lời lên án mạnh mẽ đến mức gây sốc về tội ác của Stalin do Khrushchev phát biểu khiến những phần tử bất mãn trong đội ngũ trí thức ở Việt Nam phấn khởi. Nhiều người còn đang giận dữ về cách xử lý của lãnh đạo văn hóa đối với các giải thưởng văn học giai đoạn 1954 – 1955, mới công bố kết quả trên báo Văn nghệ số ra ngày 15 tháng Ba năm 1956. Gần như đúng tròn một năm sau vụ tranh luận về Việt Bắc, Xuân Diệu lại rơi vào vị trí trung tâm của rắc rối. Vì chính quyết định trao giải nhì cho tập thơ cách mạng Ngôi sao của ông đã làm dấy lên làn sóng phản ứng mạnh mẽ nhất, với sự xuất hiện của ba bài phê bình trên tờ báo văn học tư nhân Trăm Hoa.[1]
Khi mọi chuyện đã qua, bây giờ nhìn lại mới thấy ba bài này quả thực là phát súng mở màn cho một trận chiến về công tác cách mạng của Xuân Diệu. Vấn đề cốt yếu vẫn là chất lượng những bài thơ cách mạng của ông. Liệu Ngôi sao, tập trung tất cả những sáng tác của nhà thơ trong mười năm dưới sự dẫn dắt của đảng có so được với Thơ thơ và Gửi hương cho gió không? Nếu Ngôi sao quả là ưu việt hơn, điều đó có nghĩa là chính sách văn hóa của đảng và sự chỉ đạo của các quan chức văn hóa là hợp lý. Nếu không, có thể đã đến lúc phải cân nhắc những thay đổi lớn về chính sách và nhân sự. Trong hoàn cảnh bình thường, ba bài phê bình trên Trăm Hoa và tiếp theo là việc tờ báo phải đóng cửa vì phá sản sẽ đặt dấu chấm hết cho vụ việc này, và các trí thức bất mãn sẽ hướng mối quan tâm của mình sang những thứ khác.
Nhưng lời kêu gọi của Khrushchev đã mang lại những thay đổi lớn lao cho bầu không khí trí thức ở Hà Nội. Đối với những người đang bất mãn, nhà lãnh đạo Liên Xô này đã tạo cho họ ấn tượng rằng, nếu kiên trì bày tỏ những nỗi bất bình và đấu tranh cho những yêu cầu của mình, có thể mang lại những thay đổi. Đối với lãnh đạo đảng, yêu cầu phải hòa nhịp với những biến động thời sự về tư tưởng ở Moscow có thể buộc họ thấy rằng cần phải áp dụng một thái độ dung hòa hơn đối với những yêu cầu của đội ngũ trí thức, nhất là khi họ đang trong tầm quan sát của các đại sứ quán của khối xã hội chủ nghĩa đặt tại Hà Nội.
Bên cạnh đó, với một động thái chắc là có chủ ý đánh lạc hướng sự quan tâm dư luận khỏi vầng hào quang sùng bái cá nhân đã và đang tồn tại quanh Hồ Chí Minh, lãnh đạo đảng thận trọng đưa ra thuật ngữ “sùng bái cá nhân” sao cho nghe có vẻ như một cấp độ hơi nặng hơn của các căn bệnh cũ như “cá nhân chủ nghĩa”, “quan liêu”, “cửa quyền”. Đây là những thuật ngữ lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam thường dùng trong suốt mấy thập kỷ trước để phê bình những đảng viên không làm tốt công tác được giao.[2] Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã giải thích rõ về các lỗi lầm và căn bệnh (chính ông gọi như vậy) thường mắc này cho đội ngũ đảng viên trong cuốn sách Sửa đổi lề lối làm việc ông viết năm 1948.[3] Các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hẳn thấy nhẹ người khi biết rằng các trí thức bất mãn ban đầu chỉ dừng ở mức áp dụng thuật ngữ “sùng bái cá nhân” đối với lãnh đạo cấp trên trực tiếp của mình trong lĩnh vực văn hóa. Chừng nào mà sự chỉ trích chỉ dừng lại trong giới hạn an toàn với những mối ưu tư nhỏ hẹp về công tác văn hóa, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam tỏ ra sẵn lòng để cho đội ngũ trí thức cạo gáy các lãnh đạo chuyên môn của mình.
Tất cả những điều đó là dấu hiệu xấu báo trước một thời kỳ sóng gió sắp đến với Xuân Diệu, khi những lời bàn sôi nổi về quá trình tham gia cách mạng của ông lan sang tới các trang báo Văn nghệ. Trên tờ báo này, quan chức văn hóa cao cấp Hoài Thanh, người đã tham gia ban giám khảo, buộc phải bảo vệ quyết định trao giải nhì cho Ngôi Sao với những lời khẳng định công khai về tác phẩm của Xuân Diệu:
“Cách mạng càng tiến lên, Xuân Diệu càng thêm gắn bó với quần chúng, nhất là với quần chúng nông dân, nhờ đó thơ Xuân Diệu càng thêm chắc về nội dung tình cảm, thêm giản dị về điệu về lời. Và đã có lúc chúng ta tưởng như gặp một Xuân Diệu hoàn toàn mới. Nhưng cuộc đấu tranh giữa cái mới và cũ trong thơ Xuân Diệu cũng như trong con người của mỗi chúng ta là một cuộc đấu tranh gay go. Trong cái mới sao cho khỏi rơi rớt lại những cái cũ. Cái phần cũ tôi muốn nói cái phần sống sượng, lệch lạc, giả tạo trong thơ Xuân Diệu cũng còn nhiều. Nhưng hôm nay tôi không định nói về phần ấy. Tôi muốn nói về cái phần đứng đắn, chân thành trong thơ Xuân Diệu.”[4]
Tuy dành phần lớn bài viết để khen ngợi những phần đúng đường lối của Ngôi Sao, chính Hoài Thanh đã công nhận những nhược điểm của tập thơ này. Tuy vậy, ông ta quy nguyên nhân cho quá khứ tiểu tư sản của Xuân Diệu, chứ không phải vì những giá trị và sự dẫn dắt tác giả mới tiếp nhận trong mười năm phục vụ cách mạng.[5]
Dù được sự tiếp ứng nói trên, tình hình vẫn ngày càng xấu đi cho Xuân Diệu. Một tuần sau bài viết của Hoài Thanh, Văn nghệ đăng một bài ngắn của nhà thơ lãng mạn nổi tiếng Nguyễn Bính, lớn tiếng phản đối sự thiên vị của ban giám khảo dành cho Ngôi Sao và phủ nhận những lời bào chữa của Hoài Thanh, cho rằng đó chỉ là nỗ lực xoa dịu dư luận một cách vụng về:
“Thắc mắc chung quanh tập Ngôi sao thực là nhiều và sôi nổi. Có những thắc mắc đã nói ra trên báo chí, có những thắc mắc chỉ trao đổi trong những cuộc mạn đàm. Có những thắc mắc trong anh em Văn nghệ, có những thắc mắc của bạn đọc. Của những người ở vùng tự do cũ, cũng như ở vùng mới giải phóng, ở nhiều tầng lớp khác nhau, trong những cương vị công tác, hoạt động khác nhau. Nói chung, phần tán thành ít mà phần thắc mắc thì hầu như phổ biến. Tập thơ Ngôi sao lại đã xuất bản trước khi công bố giải thưởng. Ngay khi chưa biết nó được giải cũng đã nhiều anh em phàn nàn về những mặt hỏng của nó. Sao không có một cuộc thăm dò dư luận từ trước? Quả là ban giám khảo chưa thực mở rộng dân chủ, chưa tha thiết lắng nghe ý kiến nguyện vọng của quần chúng? Sự định đoạt giá trị và thứ bậc tác phẩm hầu như chỉ thu hẹp trong phạm vi ban giám khảo, trong sự bàn cãi phân tách của một số nhỏ người.
[…] Đối với những phản ứng trong quần chúng, Ban chấm giải không tự kiểm điểm, không trưng cầu ý kiến của quần chúng, khơi cho hết thắc mắc của mọi người, mà chỉ tìm cách xoa dịu bằng một bài báo nặng tính cách bào chữa của Hoài Thanh trong Văn nghệ số 122. Một vài anh em không bằng lòng ra mặt những bài phê bình tập Ngôi sao trên báo Trăm hoa, cho đó là lối “đập” thiên lệch và ác. Trong khi ấy trên tờ báo của Hội vẫn có những bài phê bình có tính cách “đập” thiên lệch và ác như bài của Nguyễn Đình Thi phê bình Giai phẩm. Phải chăng đó là lưu tệ của cái thói “lỗi người để túi trước, lỗi mình để túi sau?”[6]
Ngày 21 tháng Sáu năm 1956, Văn nghệ đăng tiếp bài viết thứ ba về Ngôi sao, của một nhà văn khác tên là Huy Phương.[7] Tác giả lập luận rằng, mặc dù thơ cách mạng của Xuân Diệu nói chung có biểu hiện một lòng thiết tha với dân tộc, nhân dân và cách mạng, nhưng tình cảm cao quý ấy chỉ hiện lên rất “yếu đuối” trong tập Ngôi sao. Huy Phương viết, “Nhưng những lúc nào Xuân Diệu bạo dạn đi sâu vào thực tế, được chất chiến đấu của thực tế tác động mạnh mẽ vào tâm hồn, thì ta thấy anh cũng đã viết được những bài thơ thành công”. Tuy nhiên, Huy Phương viết tiếp, “nhưng những khi Xuân Diệu trở về với ‘hồn thơ’ của mình thì thơ anh chỉ là tiếng nói yếu đuối của con người còn vướng mắc trong cái “tôi” riêng lẻ bé nhỏ.” Do vậy, tác giả kết luận trong bài, những vần thơ cách mạng hay nhất của Xuân Diệu là nhờ cảm hứng trong quá trình Xuân Diệu tham gia cải cách ruộng đất.[8]
Phần còn lại của bài viết là sự khai triển lập luận trên, khi tác giả cố chứng minh những điểm mạnh của thơ cách mạng Xuân Diệu là kết quả của quá trình học hỏi theo chỉ dẫn của đảng (nhất là những phần lấy cảm hứng từ cuộc đấu tranh thực sự của quần chúng lao động). Trái lại, tất cả những điểm yếu là kết quả của sự chệch hướng khi tác giả không theo sự dẫn dắt của đảng, để cái tôi cá nhân của quá khứ tư sản xen vào gây tác hại. Ngay cả những vần thơ tuyệt đẹp tả thiên nhiên đã góp phần mang lại sự nổi tiếng cho thơ lãng mạn Xuân Diệu (và Hoài Thanh đã gồng mình thuyết phục mọi người rằng trong Ngôi sao vẫn có những vần thơ như vậy) cũng không làm Huy Phương hài lòng: “…Xuân Diệu nhìn quanh mình chỉ thấy những màu sắc lung linh, óng ả của núi sông, mây gió, cờ sao… Anh ngợp đi trong những lạc thú về thị giác và vị giác, cuộc đời biến diễn trước mắt, anh thấy như một bữa tiệc ngon của mắt và mồm.”
Một trong những nội dung thú vị nhất của bài viết là những lời bàn của Huy Phương về cách Xuân Diệu tả chiến tranh. Hiển nhiên đây là phần khó đổi lỗi cho quá khứ tư sản của nhà thơ nhất trong cả tập Ngôi sao, vì đương nhiên những tập thơ lãng mạn nổi tiếng của Xuân Diệu Thơ thơ và Gửi hương cho gió không hề có chỗ cho bạo lực. Vậy phải giải thích những câu thơ sau thế nào đây? Tả quân địch, Xuân Diệu viết:
Rượu mồi hôi, bánh xương tủy tim gan,
Thịt nhân quần chúng mày vẫn uống ăn.
Và
Óc đã vỡ máu lộn cùng xương tủy
Tay lìa chân, đầu rụng tiệc đau thương.
Tả người lính Việt Minh, Xuân Diệu viết:
Giữa xuân nay muôn chiến sĩ say mêLấy máu tủy đổ ra đời bát ngátNgừng tay lại thấy sức xuân còn nhạtĐổ máu thêm cho đến lúc toàn hồng.[9]Điều khiến Huy Phương thấy khó chịu vì những dòng thơ “nhễ nhại những máu huyết” này là “bệnh khoái cảm” (khoái cảm bệnh hoạn) mà Huy Phương tin là Xuân Diệu đã đạt được khi viết những dòng thơ đó. “Những câu như vậy, cái lối nhìn như vậy không phải là những trường hợp ngẫu nhiên trong thơ Xuân Diệu. Nó là biểu hiện của cả một thái độ sống bắt nguồn từ cả một hệ thống ý thức và tình cảm của tác giả”. Tình cảm, theo Huy Phương, là “một cạnh khía quan trọng của khả năng cảm thông của tác giả với thực tế” và vì thế phải có một vị trí quan trọng trong thơ. “Nhưng khi cảm giác của nghệ sĩ thiên về tính chất hình thức và hưởng thụ thậm chí trở thành một động cơ sáng tác thì đó là biểu hiện của bản chất hưởng lạc cá nhân của chủ nghĩa lãng mạn tư sản”.[10] Huy Phương lập luận rằng, trong những vũng máu huyết, “bánh tim gan”, tay chân đứt lìa, óc vỡ này, thông điệp cách mạng không thể đến được với người đọc. Cùng với những nhược điểm khác mà nhà phê bình trẻ này cho là Ngôi sao mắc phải, Huy Phương nhận xét rằng Xuân Diệu có khoái cảm trước cảnh bạo lực rùng rợn và quy kết nguyên nhân tại quá khứ tư sản của nhà thơ.
Thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm: tháng Tám đến tháng Chạp năm 1956
Suốt bốn tháng liền từ tháng Tám đến tháng Chạp năm 1956, thời kỳ của phong trào Nhân văn – Giai phẩm, công tác kiểm soát báo chí của đảng trở nên dễ dãi hơn bao giờ hết trong suốt lịch sử của chế độ. Vì sao, mới ra lệnh tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 vào tháng Hai, lãnh đạo đảng lại đột ngột chuyển hướng và cho phép tự do báo chí vào những tháng cuối năm 1956? Trước hết, vì nhu cầu viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc là rất cấp bách, khiến giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy buộc phải hòa nhịp với những diễn biến chính trị tư tưởng ở hai nước đồng minh này. Ở Moscow, đó là phong trào hóa giải ảnh hưởng của Stalin, ở Bắc Kinh, đó là chính sách Trăm Hoa. Một yếu tố bên ngoài nữa là cuộc nổi dậy Poznan ở Ba Lan vào tháng Sáu. Một chị thỉ của ban bí thư đảng ban hành tháng Tám nhận định: “Bọn tay sai của Mỹ – Diệm còn lại ở miền Bắc có thể lợi dụng những sai lầm và khó khăn tạm thời của ta để phá hoại ta. Vụ lộn xộn xảy ra ở Pôdơnan (Poznan) thuộc Ba Lan gần đây là một bài học cảnh giác lớn cho ta”.[11] Một yếu tố quan trọng của hoàn cảnh trong nước có tác động đến quyết định nhân nhượng đột ngột của đảng là dư chấn còn nóng hổi của chiến dịch cải cách ruộng đất đầy bạo lực, mới kết thúc vào tháng Sáu năm 1956. Những người được tiếp cận bản báo cáo bí mật của Khrushchev không thể không nhận thấy sự tương đồng giữa những sự kiện tiêu cực được nêu trong văn bản đó với những cái gọi là “sai lầm” trong chiến dịch cải cách ruộng đất ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (giết người không cần xét xử, tra tấn để cưỡng bức nhận tội hoặc tố cáo người khác, cùng với hàng loạt biểu hiện bất chấp nhân quyền trong chiến dịch).
Một biểu hiện của cảm giác lo lắng của giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này có thể thấy qua Chỉ thị 45 của ban bí thư Đảng Lao động Việt Nam, ban hành ngày 23 tháng Tám năm 1956: “Về tăng cường vận động quần chúng để đề phòng bọn phản động gây ra tình trạng cưỡng bức di cư vào Nam hay kích động gây hấn hoặc phá hoại.” Lúc đó đã hơn một năm sau ngày biên giới Nam Bắc khép lại, lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn e ngại nguy cơ di dân hàng loạt. Một phần khác của chỉ thị, chủ yếu nói về các cộng đồng Công giáo, viết rằng “trong số người có tư tưởng muốn đi Nam thì phần lớn là nông dân lao động, nhiều người được chia quả thực trong cải cách ruộng đất[12], có nơi cả cốt cán và cán bộ xóm cũng muốn đi”.[13] Nhà văn cách mạng Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 21 tháng Tám năm 1956 về tình hình lúc bấy giờ như sau: “Nông dân sau cải cách ruộng đất, đánh nhau vì tranh tháo nước, để cứu úng thủy. Có hiện tượng Diệm nó phát động một phong trào di cư mới. Mà lần này có thể cả quần chúng cơ bản đi”.[14]
Giai đoạn đầu của thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm có thể được đánh dấu bằng hội nghị do lãnh đạo Hội Văn nghệ triệu tập từ ngày mồng một đến ngày mười tám tháng Tám năm 1956. Hơn ba trăm trí thức đủ mọi thành phần đang làm việc ở Hà Nội đã tới dự hội nghị, nhiều người đã tận dụng ngọn gió “dân chủ” do Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô đưa đến (đến lúc đó đã được thể hiện trong Nghị quyết 9 Đảng Lao động Việt Nam) để bày tỏ những bức xúc bị dồn nén lại trong một thời gian dài.[15] Trong thời gian diễn ra hội nghị, cả Văn nghệ và Nhân Dân cùng đăng trích đoạn bài báo viết bằng tiếng Trung của Lục Định Nhất “Trăm Hoa Đua Nở, Trăm Nhà Đua Tiếng”, mở đường cho luồng gió dân chủ thứ hai đến từ Bắc Kinh.[16] Như chúng ta đều biết, trong vòng ba tháng sau hội nghị học tập nói trên, những trí thức cách mạng bất mãn ở Hà Nội rủ nhau lần lượt xuất bản bốn ấn phẩm mới: báo Nhân Văn và ba tạp chí văn hóa Đất Mới, Sáng Tạo và Nói Thật, đồng thời tái bản hai tờ báo Giai Phẩm và Trăm Hoa.[17]
Những bài vở trong các ấn phẩm này đề cập đến hàng loạt vấn đề và không dừng lại ở lĩnh vực văn nghệ: tự do, dân chủ, tham nhũng, bạo lực cách mạng, hóa giải ảnh hưởng của Stalin, cải cách tư pháp, chủ nghĩa Mác, nhân quyền, giá trị truyền thống và nhiều chủ đề bức thiết khác. Chung quy, phần lớn các chủ đề trên, bằng cách này hay cách khác, đều quy về vấn đề cơ bản nhất: tự do. Trên thực tế, hai từ “tự do” và “dân chủ” xuất hiện ít nhất 360 lần trong ba mươi trang của năm số báo Nhân Văn. Các báo chí tư nhân thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm kêu gọi lãnh đạo đảng tiến hành cải tổ nhiều lĩnh vực, tuân thủ các tiêu chuẩn mà đảng áp dụng cho mọi người khác, và công nhận rằng việc lý tưởng hóa Liên Xô như một thiên đường xã hội chủ nghĩa không một tỳ vết là không còn hợp thời nữa. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, dù các thành viên phong trào Nhân văn – Giai phẩm yêu cầu phải đánh giá lại hình ảnh của Liên Xô và của chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phù hợp thực tế hơn, điều này không hề dẫn tới yêu cầu tương tự về việc xem xét lại nhận định tiêu cực của chế độ miền Bắc đối với Cộng Hòa miền Nam Việt Nam hay đồng minh Hoa Kỳ.[18]
Trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, có bảy bài báo về Xuân Diệu gây nhiều chú ý (ba bài trên báo chí của nhà nước và bốn bài trên báo tư nhân). Cả bảy bài báo đều tập trung vào quá trình tuyển tập thơ cách mạng của Xuân Diệu Ngôi sao được xét trao giải nhì của giải thưởng văn học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1954 – 1955, và chất lượng chung của tuyển tập này có xứng đáng hay không.
Phan Khôi
Có lẽ để bộc lộ rằng sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu đã trở thành một đề tài căng thẳng đến thế nào, bài báo đầu tiên trên ấn phẩm đầu tiên của thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 dành hẳn một đoạn nói về nhà thơ. Bài báo của Phan Khôi nhan đề “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” có thể coi là bài luận nổi tiếng nhất trong suốt bốn tháng sôi động với rất nhiều tranh luận học thuật.[19] Khi Phan Khôi viết bài này năm 1956, ông đã 69 tuổi (hơn Hồ Chí Minh ba tuổi). Nhà trí thức lão thành khó tính và bộc trực này có uy tín cao trong văn giới, và đã tham gia nhiều công tác yêu nước, từng viết báo, dạy học và viết văn. Đã sống và làm báo ở tất cả ba trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam: Hà Nội, Huế và Sài Gòn, ông hiểu biết về đất nước và con người Việt Nam không kém gì ai. Về quan hệ của ông với Xuân Diệu, Phan Khôi là người đã phát động và ủng hộ Phong trào Thơ mới từ đầu thập kỷ 1930. Ngoài những thành tích đáng nể về chuyên môn, Phan Khôi còn xuất thân từ một dòng họ hoàn hảo, có truyền thống ái quốc. Ông ngoại Phan Khôi là vị tướng huyền thoại Hoàng Diệu, người được giao trọng trách trấn thủ thành Hà Nội trước đợt tấn công của Pháp năm 1882. Khi tất cả mọi kế sách đều thất bại, theo lời kể lại, Hoàng Diệu đã tự vẫn để tỏ rõ trách nhiệm của bản thân với tư cách một viên tướng đã không thể làm tròn trọng trách giữ thành vốn đã hứa với đức vua và triều đình.[20]
Bài báo của Phan Khôi dài mười trang và gồm bốn phần. Trong phần mở đầu, nhà báo lão thành tuyên bố ông sẽ nói sự thật, với ngôn ngữ không úp mở để tất cả mọi người đều hiểu. (Việc tác giả thấy có nhu cầu tuyên bố điều này có thể gợi cho ta thấy, vào thời điểm đó ngôn ngữ Bôn-sê-vích đã trở nên rối rắm khó hiểu đến thế nào). Ông cũng thông báo rằng có một phe “đối lập” trong lĩnh vực văn nghệ, gồm nhiều trí thức ở gần như tất cả mọi cấp, mọi lĩnh vực, là những người không bằng lòng với các lãnh đạo văn hóa của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[21] Phan Khôi dành phần hai của bài báo để nói về vấn đề tự do sáng tác, lập luận rằng thái độ nghi ngờ của lãnh đạo đảng đối với các văn nghệ sĩ cách mạng trẻ là không hợp tình hợp lý. Theo ước tính của Phan Khôi, những trí thức cách mạng đã làm vượt yêu cầu để chứng tỏ được lòng trung thành trong suốt tám năm kháng chiến. Phần thứ ba của bài báo ông phê phán sự thái quá trong cách xử lý của các lãnh đạo văn hóa đối với Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 và tác giả Trần Dần trong tháng Hai vừa qua.
Phần bốn và cũng là phần cuối cùng của bài báo là nơi bắt đầu có những rắc rối cho Xuân Diệu. Trong phần này, Phan Khôi kể lại kinh nghiệm bản thân trong thời gian làm thành viên ban giám khảo xét giải thưởng văn học 1954-1955, xoáy sâu vào những lời bàn của ban giám khảo về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu:
“Hôm bình định về thơ, tôi phản đối tập Ngôi sao đứng giải nhì, tôi nói: có vớt vát lắm thì cũng chỉ nên để nó đứng giải ba. Tôi cử ra những câu bí hiểm không thể hiểu nghĩa được, thì ông Huy Cận (một trong Ban chung khảo) bảo rằng đó là tại tôi “muốn” không hiểu thì không hiểu. Quái, tôi “muốn” làm sao được? Theo lẽ, ông Huy Cận nếu binh vực cho Ngôi sao thì phải cắt nghĩa rạch ròi những câu ấy ra, chứ sao lại bảo rằng tôi “muốn” không hiểu?”[22]
Sau đó, Phan Khôi tả lại lúc ông chỉ ra một vài câu thơ không hẳn khó hiểu, nhưng “không đáng gọi là thơ”, ý muốn nói thơ cách mạng của Xuân Diệu kém hơn thơ lãng mạn. Ông kể rằng, đáp lại lời ông, “một ông trong ban (quên là ai) cãi rằng nếu thế thì bao lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có hiệu quả gì sao?” Hình ảnh Xuân Diệu được tả trong bài báo của Phan Khôi là một người ích kỷ và cá nhân không khác gì ấn tượng chung về tính cách cũ nhà thơ trước khi tham gia cách mạng, điều này đã phủ nhận mạnh mẽ diễn ngôn chính thống rằng cách mạng đã hoán cải Xuân Diệu. Theo những thông tin Phan Khôi được biết, Xuân Diệu đã dùng quyền lực và ảnh hưởng từ nội bộ đảng để để cao tập thơ của mình: “Ban Chung khảo theo đề nghị của ông Xuân Diệu, sau khi tuyên bố giải thưởng, phải làm nhiều cách tuyên truyền cổ động rầm rộ cho các tác phẩm được giải, và đã cắt cử người nào viết bài phê bình cho tác phẩm nào.”
Nhưng điều mà Phan Khôi thấy “quái đản” nhất về giải thưởng văn học nói trên là việc ba người trong ban giám khảo lại nộp tác phẩm dự giải:
“Về vụ này, có một điều, người ngoài không phải là tôi, không biết đến, thì không lấy làm quái. Ấy là điều, ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong Ban Chung Khảo. Nếu chỉ ở trong Ban Chung khảo mà thôi, còn khá; thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở trong Ban Sơ khảo nữa. Sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến thuở xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng: Một người nào có con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải ‘hồi tị’, không được đi chấm trường. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không ‘hồi tị’: một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính” cả rồi; một lẽ là trắng trợn vì thấy mọi cái ‘miệng’ đã bị ‘vú lấp’”.[23]
Để giải thích ý “vú lấp miệng” của mình, Phan Khôi tả lại một vụ rõ ràng là cố tình che giấu thông tin trong một cuộc họp đột xuất của ban giám khảo giải thưởng văn học 1954-1955 vào ngày 8 tháng Tám năn 1956. Trong buổi họp đó, ông được đọc biên bản thảo luận của ban giám khảo: “Tất cả những ý phản đối tập thơ Ngôi sao của tôi đều không được ghi vào biên bản. Tôi lập tức viết thư cho ông (Trường Chinh) tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam để kể rõ sự việc.”
Vì chính quyền đã không làm gì tiếp để giải quyết thắc mắc của ông Phan Khôi, giờ đây khi mọi việc sáng tỏ trên mặt báo, mọi người có thể suy luận là Trường Chinh và lãnh đạo đảng đã phớt lờ ý kiến của ông Phan Khôi. Có ba cách lựa chọn cho các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam để giải quyết vấn đề này, tất cả đều không dễ dàng trong hoàn cảnh hiện tại. Một là, họ có thể tiếp tục làm ngơ trước lời yêu cầu xóa bỏ tham nhũng trong lĩnh vực văn hóa của Phan Khôi. Nhưng điều này có nguy cơ khiến họ bị đánh giá là không quan tâm đến tình trạng tham nhũng, và không theo đường lối của Khrushchev mới đưa ra về tăng cường dân chủ trong đảng và lãnh đạo tập thể (có nghĩa là phải lắng nghe ý kiến từ bên dưới). Hai là, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có thể nghe theo đề nghị của Phan Khôi là tiến hành một số biện pháp kỷ luật đối với các lãnh đạo văn hóa. Nhưng làm như thế chẳng khác gì gửi một thông điệp cho các trí thức rằng họ có thể giữ vai trò cảnh sát đạo đức ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chức năng giám sát chính quyền và buộc lãnh đạo đảng phải giải quyết những bất công mà trí thức phát hiện. Lựa chọn thứ ba là tránh phải giải quyết những yêu cầu của Phan Khôi là bằng cách làm thế nào đó để hạ uy tín của ông. Nhưng vì đảng đang cho phép tự do báo chí trở lại, chắc chắn một chiến dịch bôi nhọ nhà báo lão thành và nhiều uy tín này trên các cơ quan ngôn luận của đảng sẽ kéo theo những phản hồi từ những người ủng hộ Phan Khôi trên báo chí tư nhân. Điều này sẽ thu hút sự quan tâm rộng rãi hơn của quần chúng đối với Phan Khôi và các ấn phẩm tự do trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm.
Yến Lan
Khi đã xác định rằng không thể phớt lờ những yêu cầu công khai của Phan Khôi, lãnh đạo đảng thử nghiệm một giải pháp kết hợp cả hai lựa chọn còn lại, một mặt buộc ba quan chức văn hóa (Hoài Thanh, Nguyễn Tuân và Nguyễn Đình Thi) công bố bài tự phê bình, mặt khác bật đèn xanh cho đăng những bài viết hạ uy tín Phan Khôi. Bài đầu tiên của dạng này xuất hiện trên Văn nghệ số ra ngày 20 tháng Chín năm 1956, tập trung đả kích bài của Phan Khôi ở khía cạnh phê phán sai rằng lãnh đạo đảng đã phớt lờ một vụ gian lận hiển nhiên. Tác giả của nó là nhà thơ, nhà biên kịch 40 tuổi, Yến Lan, người đã ghi biên bản cuộc họp của ban giám khảo. Ông nhận rằng đó là quyết định cá nhân của một mình ông khi loại bỏ ý kiến của Phan Khôi về tập Ngôi sao của Xuân Diệu, chứ không phải là âm mưu chung của Ban như nhà báo Phan Khôi đã áp đặt: “Biên bản là để ghi lại những ý chính của cuộc họp. Những nhận xét đó (của ông Phan Khôi) đều lạc khỏi đề tài đang thảo luận, hoặc đưa ra trong lúc giải lao, giữa hai ba người với nhau (nhiều lúc tranh luận rất sôi nổi, đôi khi gay gắt nữa) và không được đưa vào biên bản vì thư ký lúc đó đang nghỉ giải lao”.
Tiếp theo, Yến Lan trả lời thắc mắc của Phan Khôi đối với việc ba người trong ban giám khảo (trong đó có Xuân Diệu) gửi tác phẩm và được trao giải:
“Ông [Phan Khôi] đã vạch ra ba ông Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu có tác phẩm dự thi mà cùng đều ở trong ban chấm thi từ lúc sơ khảo đến chung khảo. Cũng như những người khác, ông Phan Khôi có quyền nghi như thế sẽ có điều ám muộn, nhưng trên thế giới việc đó không có gì là quái, miễn là người ta phải làm việc đúng với nguyên tắc: những người ở ban chấm thi mà có tác phẩm dự giải thì không có quyền biểu quyết tác phẩm của mình. Nguyên tắc ấy ở đây xin chứng thực là luôn luôn được nhắt đến và làm đúng, còn ra có vị nể hay không thì không thuộc phạm vi bài này.”[24]
Trần Công
Ngày 20 tháng Chín năm 1956 – ngày bài viết của Yến Lan được đăng trên Văn nghệ, cũng tình cờ là ngày mà nhà trí thức cách mạng bất mãn Nguyễn Hữu Đang, với sự cộng tác chủ yếu của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy và Phan Khôi, khai trương số đầu tiên của báo Nhân Văn. Cũng như số đầu tiên của tập Giai Phẩm Mùa Thu xuất bản trước đó mấy tuần, tờ báo gai góc này ngay lập tức khai thác chủ đề giải thưởng văn học 1954 – 1955. Trong bài báo “Chống bè phái trong văn nghệ”, nhà văn trẻ Trần Công viết:
“Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, đại diện cho ban Chấp hành Hội, đều có trách nhiệm lớn đối với phong trào. Thế mà tác phẩm còn non kém của ba ông lại được giải. Nếu không phải tự mình bỏ phiếu cho mình thì cũng là bè cánh ta lại bỏ phiếu cho tác phẩm tồi của bè cánh ta (cũng nên chú ý đến Huy Cận có chân trong ban chấm giải, mà ai cũng biết Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một).”[25]
Trần Công còn lục lại việc cũ trong quá khứ, đưa ra một vấn đề hóc búa khác cho Xuân Diệu:
“Tập thơ Việt Bắc cũng là một tập thơ như muôn ngàn tập thơ khác, dù có hay chăng nữa thì cũng chỉ là một tập thơ. Nhưng nó có cái đặc biệt. Đặc biệt không phải ở thơ mà ở tác giả. Giá tập thơ Việt Bắc là của người khác thì phê bình cũng chẳng sao đâu, nhưng Việt Bắc lại là của Tố Hữu. Một loạt bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm một số cán bộ lãnh đạo [Hội] Văn nghệ ngạc nhiên, tức giận thậm chí có người nói ‘Địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu.’”[26]
Nguyễn Tuân
Một tuần sau đó, vào ngày 27 tháng Chín năm 1956, một bài báo khác xuất hiện trên tờ Văn nghệ với chủ ý đáp lại những thông tin mà Phan Khôi tiết lộ xung quanh việc chấm giải nhì cho tập thơ Ngôi sao đang gây tranh cãi. Bài báo là một bản tự phê bình công khai của nhà văn nổi tiếng thời Pháp thuộc, đương kim tổng thư ký Hội Văn nghệ, Nguyễn Tuân. Ông cũng tham gia ban giám khảo, cùng với Phan Khôi, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh và năm trí thức có uy tín khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[27] Trong bản tự phê, dưới nhan đề “Những suy nghĩ về giải thưởng văn học 1954-1955”, Nguyễn Tuân thừa nhận rằng ông không đồng tình với đề xuất trao giải nhì cho tập thơ Ngôi sao (theo ông, trao giải ba thì xứng đáng hơn).[28] Tuy nhiên, theo Nguyễn Tuân, vấn đề liên quan đến việc trao giải cho tập thơ Ngôi sao không phải chỉ ở chỗ tác phẩm đáng được giải nào: “Riêng tôi muốn tác giả Ngôi sao tự nhìn mình nghiêm khắc nhiều hơn nữa, và tôi nghĩ rằng các anh Hoài Thanh, Huy Cận đã tích cực bênh vực thơ Ngôi sao, có thể giúp đỡ nhiều cho tác giả thấy rõ vấn đề. Riêng phần tôi, trong việc Ngôi sao, tôi cũng thấy mình nể nang trước những ý kiến của Hoài Thanh đối với thơ Ngôi sao.”[29]
Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam
Trong số tiếp theo, ra một tuần sau đó (ngày mồng 4 tháng Mười năm 1956), báo Văn nghệ đăng tiếp một một bài tự phê thứ hai, liên quan đến vụ Ngôi sao của Xuân Diệu: “Thông báo của Ban Thường vụ Hội Văn nghệ.”[30] Trong bài, hội thừa nhận đã sai lầm trong việc xử lý vụ việc Trần Dần và bài thơ “Nhất định thắng”, cũng như thiếu sót trong việc tuyển chọn giải thưởng văn học 1954-1955:
“Lề lối làm việc luộm thuộm, thiếu dân chủ, ít chú ý liên hệ với quần chúng. Như trong khi chấm giải, đã có nhiều ý kiến về tập thơ Ngôi sao, nhưng đa số ủy viên chưa thật chú ý lắng nghe.
…Cũng trong phiên họp trên của Ban chấm giải, đa số ủy viên nhận rằng tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu xếp giải nhì là quá cao, một số cho rằng xếp Ngôi sao vào giải ba thì đúng hơn.”[31]
Nguyễn Bính
Bài báo thứ sáu trong số bảy bài liên quan tới Xuân Diệu trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, “Phải xem xét lại tất cả các giải thưởng văn học” do Nguyễn Bính chấp bút và đăng trên hai số liền của tờ Trăm Hoa (ra ngày 20 và 28 tháng Mười năm 1956).[32] Nguyễn Bính là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng, và cũng đã viết bài trên báo Văn nghệ bốn tháng trước đó, yêu cầu các lãnh đạo văn nghệ phải “nghiêm túc tự phê” vì đã trao giải nhì cho Ngôi sao trong đợt xét giải thưởng văn học 1954-1955. Khi đó, ông đang là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Trăm Hoa, tờ báo đã đăng ba bài phê phán tập Ngôi sao sau ngày công bố giải thưởng văn học 1954-1955, ngày 15 tháng Ba năm 1956. Không lâu sau đó, tờ báo sập tiệm vì hết tiền.[33] Bản thân Nguyễn Bính cũng là một ngôi sao (tuy không rực rỡ bằng Xuân Diệu) của Phong trào Thơ mới.[34] Về hoạt động cách mạng, ông đã từng rời Hà Nội vào Nam từ năm 1944 để du ngoạn và kiếm sống, ở đó khi cuộc cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp tái xâm lược Việt Nam nổ ra, ông tiếp tục làm việc trên mặt trận văn chương cho Việt Minh. Khi chiến tranh sắp kết thúc năm 1954, ông tập kết ra Bắc cùng với hàng ngàn cán bộ Việt Minh khác và bắt đầu làm việc tại Nhà Xuất bản Văn nghệ. Chính vì ở cương vị này mà ông nắm vững được thông tin chi tiết về quá trình xuất bản tập thơ Ngôi sao.[35]
Bên cạnh các nội dung khác, Nguyễn Bính khai triển một vấn đề do Trần Công nêu ra trong bài viết trên báo Nhân Văn cách đó một tháng, về việc lạm dụng “yêu cầu cách mạng” làm mục tiêu biện minh cho mọi hành động, thực chất là để che giấu động cơ mưu lợi cá nhân. Theo hướng này, Nguyễn Bính lật lại câu nhận xét, lúc bấy giờ đã bị nhiều người chê bai, về cuộc tranh luận Việt Bắc: “Địch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Nguyễn Bính kết luận, thật là hổ thẹn khi “Ông Hoài Thanh đã đem cả địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu”. Theo Nguyễn Bính, nguyên nhân thực sự khiến Hoài Thanh bênh vực tập thơ Việt Bắc là quan hệ công tác giữa ông ta và tác giả tập thơ – Tố Hữu là thủ trưởng của Hoài Thanh. “Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên ông Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải. Vì ông Tố Hữu ai cũng biết là Trung ủy, là lãnh đạo văn nghệ, là Thứ trưởng…”[36]
Những lời phê của Nguyễn Bính còn trở nên trực tiếp hơn, cá nhân hơn khi ông bàn tới mối liên hệ giữa giải thưởng văn học và tiền bản quyền khi xuất bản. Ông tiết lộ rằng trong tất cả các thi sĩ có sách in ở nhà xuất bản của Hội Văn nghệ, chỉ duy nhất có thơ Tố Hữu là được sắp vào loại A, “nghĩa là thuộc cái loại giá trị nhất và được tính tiền bản quyền tác giả cao nhất. (Không biết các ông lãnh đạo Hội có kiểm tra đôn đốc việc này hay không?)” Ở đây cần phải lưu ý rằng cụm từ “kiểm tra đôn đốc” được sử dụng rất nhiều trong các văn kiện đảng. Cũng tương tự như lời bàn của ông về việc Hoài Thanh viện tới “địch” để bênh vực tập thơ của Tố Hữu, Nguyễn Bính nhại cụm từ “tủ” này một cách mỉa mai để đánh động sự chú ý của mọi người rằng các quan chức cao cấp có thể dễ dàng lợi dụng những thuật ngữ cách mạng rất văn hoa để đánh bóng và hợp lý hóa những hành động, thực ra, có thể đơn thuần chỉ là vụ lợi cá nhân.
Nguyễn Bính cũng bật mí những chi tiết xung quanh quá trình xuất bản tập thơ Ngôi sao. Theo ông, tất cả đội ngũ cán bộ của Nhà Xuất bản Văn nghệ, nơi ông làm việc, đã đánh giá là tập thơ rất tệ, vì vậy, nó bị bỏ xó ở một góc văn phòng suốt mấy tháng, mãi đến khi “cấp trên” liên tục nhắc nhở, buộc Nguyễn Bính và đồng nghiệp phải triệu tập một cuộc họp, chọn ra những bài “đỡ tệ” nhất trong bản thảo để gửi đến Nhà in Quốc gia. “Vì lẽ Thơ Xuân Diệu không có độc giả, Xuân Diệu lại vận động mãi với cấp trên, sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể quá mới in cho 1500 quyển”. Khi các thành viên của giới văn nghệ biết được tin Ngôi sao được giải nhì, “anh em không thể tưởng tượng được rằng lại có một cuộc xâm phạm trắng trợn văn nghệ như thế. Anh em lạ quá là vì anh em không thể ngờ rằng ban giáo khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường anh em và quần chúng đến mức ấy”. Để kết thúc bài viết, Nguyễn Bính bày tỏ những suy nghĩ như sau:
“Hai ông Huy Cận và Hoài Thanh trong ban chung khảo tại sao lại “tích cực bênh vực cho tập thơ Ngôi sao” (lời ông Nguyễn Tuân)? Ông Hoài Thanh trước cách mạng đã biết chọn lọc các bài thơ hay của các thi sĩ để soạn thành quyển Thi nhân Việt Nam, có phê phán. Ông Huy Cận, tuy bây giờ là Thứ trưởng bộ Văn hóa, nhưng trước kia đã từng là một nhà thơ có tiếng tăm. Thế thì đối với một tập thơ dở như tập Ngôi sao, tại sao hai ông lại tích cực bênh vực? Có phải tại ông Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một, còn ông Hoài Thanh vụ trưởng vụ Nghệ thuật thì lại là cấp dưới của ông Huy Cận hay không?”[37]
Phạm Tường Hạnh
Bài báo cuối cùng trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm liên quan đến Xuân Diệu xuất hiện trên trang bìa của tờ Trăm Hoa số ba (ra ngày mồng 4 tháng Mười một năm 1956). Tác giả là Phạm Tường Hạnh, một nhà văn cách mạng trẻ từ miền Nam ra Bắc tập kết sau kháng chiến chống Pháp, đang làm việc cho chương trình Phát thanh Thanh niên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả phản đối ý kiến của Nguyễn Tuân trong bài tự phê, cho rằng đa số những nhận xét tiêu cực về tập thơ Ngôi sao xuất phát từ ác cảm với Xuân Diệu ở một số thành phần trong đội ngũ trí thức. Ông viết: “Tôi tưởng vấn đề không phải thế. Có thể có số người nào đó không ưa tác giả Ngôi sao. Nhưng không đến nỗi họ “giận cá chém thớt” để tẩy chay tác phẩm của Xuân Diệu. Vả lại còn có nhiều người xưa nay chưa biết mặt mũi Xuân Diệu ra sao như anh em miền Nam tập kết chẳng hạn, cũng nhiều người không thích tập thơ Ngôi sao chút nào”.[38]
(Xem tiếp phần 4 sau chú thích phần 3)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Tiêu đề của tập thơ Ngôi sao gợi hình ảnh Đảng Lao động Việt Nam, với đảng kỳ có ngôi sao vàng trên nền đỏ. Nhưng cũng có thể tác giả muốn chuyển tải cảm nghĩ về đảng như một ngôi sao dẫn đường. Chúng tôi vẫn chưa tìm lại được tư liệu những số Trăm Hoa có đăng bài phê phán tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu. Hình như tác giả của các bài phê bình đó là nhà thơ Trần Lê Văn.
[2] Xã luận, “Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-Xô đã thành công rực rỡ”, Nhân Dân, số 726, 28/2/1956. Xem thêm bài “Đồng chí Trường Chinh trả lời phỏng vấn của phóng viên đài phát thanh Mạc-Tư-Khoa”, Nhân Dân số 733, 6/3/1956.
[3] X.Y.Z., Sửa Đổi Lề Lối Làm Việc (Hà Nội, Sự Thật, 1950).
[4] Hoài Thanh, “Một vài ý kiến về tập thơ ‘Ngôi sao’ của Xuân Diệu”, Văn nghệ, số 122, 24/5/1956.
[5] Sđd. So sánh những ý kiến đánh giá thơ lãng mạn Xuân Diệu trong bài này với tác phẩm Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 để thấy giọng văn Hoài Thanh đã thay đổi như thế nào.
[6] Nguyễn Bính, “Hội cần phải mạnh dạn tự phê bình”, Văn nghệ, số 125, 14/6/1956.
[7] Huy Phương, “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu”, Văn nghệ, số 126, 21/6/1956.
[8] Một chi tiết thú vị đáng lưu ý là, đến tận tháng 6/1956, Huy Phương – một người sắp tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm vẫn có nhận xét tích cực về cải cách ruộng đất.
[9] Huy Phương, trong “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao”, dẫn bài “Xuân Việt Nam” và “Đêm Mười Chín” của Xuân Diệu.
[10] Sđd.
[11] Chỉ thị của Ban Bí thư, số 39/CT-TW, 3/8/56, “Về việc sửa chữa một số sai lầm khuyết điểm trong các công tác nhằm ổn định tình hình và ngăn ngừa âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17:374.
[12] “Quả thực” là thuật ngữ của đảng dùng để chỉ những tài sản tịch thu từ những người bị coi là kẻ thù giai cấp trong chiến dịch cải cách ruộng đất, đem chia cho những người nghèo để chứng tỏ rằng đảng quan tâm đến lợi ích của họ.
[13] “Chỉ thị của Ban Bí thư, số 39/CT-TW, 3/8/56, “Về việc sửa chữa một số sai lầm khuyết điểm trong các công tác nhằm ổn định tình hình và ngăn ngừa âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17:374.
[14] Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng: Tập 3, Nghệ sĩ và công dân (Hà Nội: Thanh Niên, 2006), 127.
[15] Chúng tôi dùng từ “dân chủ” theo nghĩa các lãnh đạo đảng thường gán cho từ này, tức là khi cấp trên lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới. Một ví dụ cụ thể, xem “Chỉ thị của thường vụ liên khu ủy IV, 1/10/1952” trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 13: 440-443.
[16] Báo Nhân Dân đưa tin về bài viết trong “Thư Bắc Kinh” của Lê Hao (Nhân Dân, số 884, 5/8/1956) nhưng mãi đến số ngày 30/9/1956 mới đăng bài dịch.
[17] Theo nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng và hồi ký của Tô Hoài, tổng biên tập báo Trăm Hoa, Nguyễn Bính cho rằng tờ báo của mình độc lập với Nhân Văn và Giai Phẩm, khách quan và trung lập hơn. Dù ý định của ông là gì chăng nữa, tờ báo Trăm Hoa cũng chia sẻ rất nhiều suy tư mang tính nhân văn được nêu trong Nhân Văn và Giai Phẩm.
[18] Một ngoại lệ là ý kiến của Nguyễn Hữu Đang kêu gọi mọi người tôn trọng pháp chế tư bản hơn: “Chúng ta quá căm ghét pháp chế tư bản chủ nghĩa đến mức, ở nhiều người, nó đã biến thành nỗi căm ghét pháp chế nói chung”. Nguyễn Hữu Đang, “Cần phải chính quy hơn nữa”, Nhân Văn, số 4, 11/11/1956.
[19] Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai phẩm Mùa thu tập 1 (Hà Nội; NXB Minh Đức, tháng 8/1956).
[20] Hoàng Diệu được chế độ mới tôn trọng đến mức tên ông được chọn đặt cho một trong số ít những con đường ở khu có nhiều biệt thự của lãnh đạo đảng tại thủ đô Hà Nội.
[21] Trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn cách mạng này ghi nhận Phan Khôi có lần đã nói với lãnh đạo đảng rằng họ là “mensheviks” (phe nhược tiểu, ngược với bolshevik), Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký tập 3: Nghệ sĩ và công dân (Hà Nội, Thanh Niên, 2006), 128.
[22] Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo”.
[23] Sđd. Ở Việt Nam, câu ngạn ngữ này được dùng để tả trường hợp một người ở thế mạnh hơn dùng quyền thế để ép người dưới dưới im tiếng.
[24] Yến Lan, “Một vài sự thật chung quanh ‘vụ giải thưởng văn học 1954-1955’”, Văn nghệ, số 139. 20/9/1956.
[25] Trần Công, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn, số 1, 20/9/1956.
[26] Trần Công, “Chống bè phái”.
[27] Năm thành viên còn lại của ban giám khảo là Đặng Thai Mai, Thế Lữ, Trương Tửu, Hoàng Xuân Nhị và Nguyễn Huy Tưởng.
[28] Nguyễn Tuân, “Về giải thưởng Văn Học 1954-1955”, Văn nghệ, số 140, 27/9/1956.
[29] Sđd.
[30] “Thông cáo của Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam”, Văn nghệ, số 141, 4/10/1956.
[31] Sđd.
[32] Nguyễn Bính, “Cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học”, Trăm Hoa, số 1 & 2, 20 và 28/10/1956.
[33] Nguyễn Bính đã miêu tả cách chế độ làm khó dễ cho báo chí tư nhân trong bài báo thú vị “Hoa lại nở”, Trăm Hoa, số 1, 20/10/1956.
[34] Không giống như Xuân Diệu và đa số các nhà thơ khác trong phong trào, Nguyễn Bính đã khai thác cảm hứng cho thơ mình từ ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ của ông có xu hướng miêu tả những cảnh bình dị ở thôn quê Việt Nam theo phong cách lãng mạn.
[35] Nguyễn Bính, “Cần phải xem xét lại toàn bộ giải thưởng văn học”.
[36] Sđd.
[37] Sđd.
[38] Phạm Tường Hạnh, “Một vài ý kiến của bạn đọc về bài ‘Về vụ giải thưởng 1954-1955’ của Nguyễn Tuân”, Trăm Hoa, số 3, 4/11/1956.
------------
Phần 4
Đông Hiến dịch
Xâu chuỗi lại những nhận xét về Xuân Diệu trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm
Những tài liệu về báo chí thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm cho phép chúng ta tổng kết lại những nét chính của dư luận đa chiều xung quanh quá trình phục vụ cách mạng của Xuân Diệu. Trước hết, có vẻ nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình và khai thác những mối quan hệ có quyền lực trong đảng để gây sức ép với NXB Văn nghệ vốn đang lưỡng lự, phải sớm in tập thơ Ngôi sao. Thứ nhì, đại đa số đội ngũ trí thức văn nghệ cho rằng chất lượng của tập thơ kém, khiến quyết định trao giải nhì càng có vẻ bất công hơn. Ba là, Xuân Diệu đã tham gia ban giám khảo xét giải thưởng văn học 1954-1955 mà vẫn nộp tác phẩm dự giải, tạo cho mình lợi thế có thể bỏ phiếu, hoặc ít nhất là vận động sự ủng hộ, cho tác phẩm của chính mình.[1] Bốn là, trong ban giám khảo, Huy Cận, bạn đời của Xuân Diệu, là người vận động tích cực nhất cho tập thơ Ngôi sao. Năm là, khi Phan Khôi nhận xét thơ cách mạng của Xuân Diệu kém hơn thơ lãng mạn, một thành viên không rõ tên của ban giám khảo đã gần như gợi ý rằng cần phải trao giải cho thơ cách mạng Xuân Diệu để đảng khỏi mất uy tín. Sáu là, sau khi Huy Cận đinh ninh rằng Ngôi sao sẽ được giải, Xuân Diệu đã tự giúp mình thêm bằng cách yêu cầu tất cả các tác phẩm được giải (trong đó, đương nhiên có Ngôi sao) phải được quảng bá rộng rãi trên báo chí của đảng (sử dụng ngân sách công) để khuyến khích quần chúng mua tác phẩm (và tiền sẽ vào túi Xuân Diệu). Điểm cuối cùng là, cả Trần Công và Nguyễn Bính đều công khai khẳng định rằng Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi, đầy quyền lực trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ.
Việc Xuân Diệu nghĩ như thế nào về những ý kiến tranh luận rất nóng liên quan đến sự nghiệp cách mạng của mình vẫn còn là điều bí ẩn, vì ông không viết một bài nào phản ứng lại những vấn đề do những người phê bình ông đưa ra. Một manh mối cho thấy trạng thái tâm lý của Xuân Diệu là ông không đăng bất cứ một bài vở gì trong suốt năm tháng liền, từ ngày 17 tháng Năm năm 1956 – ông có bài nhận xét về cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch cho đến ngày mồng 9 tháng Mười một năm 1956, bài “Về con người cũ và con người mới”.[2] Bài viết sau là bản dịch các ghi chép của Maksim Gorky về sự chuyển hóa cách mạng. Trong thời gian đó, các rạp ở Hà Nội đang chiếu bộ phim Liên Xô dựa theo tác phẩm nổi tiếng của Gorky “Người mẹ”.[3] Bản dịch các ghi chép của Gorky là một bước đi hết sức thận trọng của Xuân Diệu nhằm tiếp cận lại diễn đàn trí thức sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng.[4]
Những sự kiện trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm làm xáo trộn đời sống chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Phản ứng của chính quyền với phong trào được bắt đầu bằng bài viết “Mấy điểm sai lầm chủ yếu trong báo Nhân Văn và tập Giai Phẩm Mùa Thu” của Nguyễn Chương, một nhân vật bảo thủ, đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, số ra ngày 25 tháng Chín năm 1956.[5] Bốn nhân vật bảo thủ khác trong đảng, Xuân Trường, Hoàng Xuân Nhị, Hồng Chương và Quang Đạm, tất cả đều gắn với hai ấn phẩm nhiều quyền lực nhất của chế độ đương thời, báo Nhân Dân và tạp chí lý luận Học Tập, tiếp sức liền.[6] Ngoài bài viết của những vị nêu trên, báo Nhân Dân còn đăng khoảng ba mươi bài khác, trong thời gian từ tháng Mười năm 1956 đến tháng Giêng năm 1957, phản hồi về những vấn đề cốt lõi được nêu trong các ấn phẩm của Nhân văn – Giai phẩm, như tự do dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa nhân văn, và quan hệ giữa chính trị và văn hóa.
Là tờ báo chuyên ngành văn hóa của chính quyền, Văn nghệ – lúc đó Xuân Diệu vẫn có tên trong ban biên tập, chỉ đăng có sáu bài phê phán phong trào Nhân văn – Giai phẩm trong mười hai số xuất bản trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, tức là trung bình hai số mới có một bài.[7] Có lẽ điều quan trọng hơn là, chỉ trừ bài cuối cùng do một quan chức văn nghệ gốc Nghệ An tên là Hoàng Trung Thông (bút danh Hồng Vân) viết, tác giả của tất cả các bài còn lại đều là những nhân vật tương đối ít tên tuổi trong đội ngũ trí thức văn nghệ. Đó thực là một phản ứng yếu ớt, nếu so sánh với những đòn tấn công mãnh liệt hồi tháng Ba và tháng Tư tờ báo này đã dành cho tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 – một ấn phẩm vô hại hơn nhiều so với những ấn phẩm sau này của phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Hồi đó, ba nhà trí thức quyền lực nhất nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Hoài Thanh, Xuân Diệu và Nguyễn Đình Thi cùng tiên phong chỉ đạo đợt tấn công.
Trong con mắt của các lãnh đạo đảng cao cấp, giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tờ báo Văn nghệ lúc bấy giờ hẳn là một đám hỗn loạn. Một vấn đề nhức nhối là ba thành viên quan trọng trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm: Văn Cao, Sĩ Ngọc và Chu Ngọc đều có chân trong ban biên tập chín người của báo Văn nghệ. Điều này đồng nghĩa với việc không thể sử dụng tờ báo này làm vũ khí hữu hiệu để tấn công Nhân văn – Giai phẩm. Trên thực tế, nhiều thành viên quan trọng của phong trào cải cách này còn đăng bài trên báo Văn nghệ trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Hình như họ không gặp trở ngại nào với cả hai mảng báo chí nhà nước (Văn nghệ) và tư nhân (Nhân văn – Giai phẩm), và tự do qua lại cả hai bên.[8]
Có ba yếu tố giúp giải thích vì sao báo Văn nghệ giữ thái độ khá trung lập và không thấy nhiều sự phụ họa của giới trí thức trong chiến dịch tấn công Nhân văn – Giai phẩm. Trước hết, đa số thành viên trong đội ngũ trí thức có vẻ ngầm đồng tình với nhiều đề xuất nhân văn được thể hiện trong các ấn phẩm của phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Hai là, dưới góc độ kinh tế đơn thuần, tình trạng lạm phát, thiếu lương thực, và không có chính sách lương chuẩn hóa, ổn định cho các trí thức ở Hà Nội lúc bấy giờ đồng nghĩa với tình trạng các nhà văn phải chật vật mới đủ ăn. Môi trường tự do báo chí sẽ là mang lại nhiều cơ hội kiếm tiền nhuận bút, điều mà các trí thức trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất khát khao. Và ba là, lãnh đạo đảng ban đầu đã chủ trương xoa dịu các trí thức bất mãn bằng cách để cho họ xả những nỗi tức giận lên đầu những người lãnh đạo chuyên môn trực tiếp. Những quan chức văn hóa này (như Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, thậm chí ngay cả Tố Hữu) đã bị đồng nghiệp trí thức hạ uy tín và tạm thời bị chính quyền thả nổi. Đến lúc thấy nhất định phải loại bỏ Nhân văn – Giai phẩm, lãnh đạo đảng buộc phải trông cậy vào các nhà lý luận Mác-Lê của hai tờ Nhân Dân và Học Tập chứ không phải các quan chức văn hóa, những người đã phải trả giá đắt vì đã đánh tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 vào đầu năm. Tình thế đó giúp giải thích vì sao Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và các lãnh đạo văn hóa khác phải ngồi im lặng ngoài đường biên gần như suốt thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, không hề tham gia viết bài đánh phong trào này trong chiến dịch.
Khoảng giữa tháng Chạp năm 1956, lãnh đạo đảng bắt đầu ra lệnh đóng cửa các ấn phẩm Nhân văn – Giai phẩm, bắt đầu với tờ báo Nhân Văn. Một bài báo của nhà lý luận cứng rắn Xuân Trường đăng trên Nhân Dân số ra ngày 10 tháng Chạp năm 1956 đã tổng kết quan điểm của chính quyền về tờ báo nói trên: Nhân Văn tuyên bố là đi theo sự lãnh đạo của đảng, nhưng trên thực tế thì không. Tờ báo nói xấu chế độ bằng cách công khai kết tội lãnh đạo đảng tìm cách phá hoại tờ báo, nó “gieo mầm nghi ngờ trong quần chúng về bản chất tự do dân chủ của chế độ ta”; và các bài báo “xuyên tạc, nói xấu, bịa đặt”. Về những suy tư của Nhân Văn đối với Ba Lan và Hungary, Xuân Trường viết:
“[Nguyễn Hữu Đang] lại đặt vấn đề ‘nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?’ Chế độ ta là chuyên chính dân chủ nhân dân, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, của Tổ quốc, của chế độ. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt của một vấn đề. …Những biến cố vừa rồi ở Ba-lan và Hung-ga-ri có nguyên nhân khách quan và chủ quan của nó. Kẻ chủ mưu những vụ phiến loạn ở Hung-ga-ri là bọn phản cách mạng gồm những phần tử phong kiến tư sản phản động tay sai của đế quốc. Chúng lợi dụng sự bất mãn của quần chúng mà làm điều phi pháp. Cách hiểu và đặt vấn đề của bạn Nguyễn Hữu Đang về thực tế đã gieo một tâm lý hoài nghi cho một số người chưa thật hiểu ở đường lối và chính sách của Đảng và Chính phủ.”[9]
Đến tháng Chạp, Trung ương đảng tổ chức gặp gỡ các trí thức và phê bình nghiêm khắc những người đã tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Dù những nhà cải cách này vẫn tiếp tục được làm việc cho chế độ, nhưng cuộc sống của tất cả các thành viên từng tham gia phong trào vẫn không thể trở lại bình thường. Bị công an theo dõi là chuyện thường ngày, và đương nhiên khiến cho những người khác trong giới trí thức (bất kể ý kiến riêng của họ về Nhân văn – Giai phẩm như thế nào) ngại bị người khác phát hiện có tiếp xúc với các thành phần Nhân văn – Giai phẩm.[10] Tuy nhiên, bịt miệng phong trào Nhân văn – Giai phẩm đã là một việc làm đau đầu các lãnh đạo đảng, nhưng việc khó hơn (và đòi hỏi những biện pháp mạnh hơn) là phải phá vỡ sự thống nhất của giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với xu hướng coi tranh luận thả cửa và sự tồn tại của nhiều luồng ý kiến không đồng thuận là chuyện thường ngày trong giới. Xu hướng dung hòa các quan điểm bất đồng này buộc Đảng Lao động Việt Nam phải siết chặt sự kiểm soát đối với các hoạt động sáng tác. Lãnh đạo đảng cần các trí thức kiểm soát lẫn nhau, chứ không phải dung hòa với nhau.
Giữa Nhân văn – Giai phẩm và Văn: Hai bài phát biểu của Xuân Diệu về Văn học Cách mạng
Sang đến năm 1957, tình hình của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tương đối ổn định so với những năm đầy xáo trộn trước đó, từ cải cách ruộng đất, hóa giải ảnh hưởng Stalin, phong trào Trăm Hoa, những biến động chính trị trong khối xã hội chủ nghĩa (Ba Lan và Hungary) và Nhân văn – Giai phẩm. Tuy nhiên, một văn kiện chính thức của đảng năm 1957 cho người đọc một cảm tưởng rằng chế độ vẫn vững vàng trên đôi chân của mình, dù phải liên tiếp đối mặt với hết sự cố này đến rắc rối khác, cố gắng kiểm soát một xã hội đang rời rạc và thiếu hiệu quả. Vụ đàn áp Nhân văn – Giai phẩm vào tháng Chạp năm 1956 đánh dấu bước đi đầu tiên trong kế hoạch đảo ngược lại chính sách hóa giải ảnh hưởng của Stalin, sẽ được thực hiện trong suốt năm 1957. Đối với vấn đề cải cách ruộng đất – một chiến dịch gây tác động sâu rộng đến đông đảo dân chúng nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo đảng tỏ ra ngày càng hờ hững với việc “sửa sai” – dù trước đó đã hứa sẽ thực hiện triệt để, trong lúc cao điểm của phong trào hóa giải ảnh hưởng của Stalin vào tháng Mười năm 1956. Những bước sửa sai gồm có: phục hồi công tác cho các đảng viên bị đấu tố, bồi thường thích đáng về vật chất cho nông dân lao động có tài sản bị tịch thu, giảm thuế nông nghiệp – vì trong chiến dịch đã bị nâng mức đồng loạt.[11] Về mặt tư tưởng, chính quyền chưa bao giờ thấy dễ chịu với chính sách hóa giải ảnh hưởng Stalin.[12] Về kinh tế, bất kể xu hướng chính sách của lãnh đạo đảng có như thế nào chăng nữa, tình hình kinh tế ngày càng xuống dốc của đất nước không cho phép thực thi chính sách bồi thường toàn diện cho các nạn nhân cải cách ruộng đất. Vào giữa năm 1957, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam nhận xét tình hình kinh tế như sau:
“Hội nghị (Bộ Chính trị tổ chức ngày mồng 6 tháng Tư năm 1957) nhận định từ đầu năm đến nay, tình hình thị trường ngày một gay go: vật giá tiếp tục lên mạnh, thất thu về thuế đang nặng nề, nạn đầu cơ tích trữ trầm trọng hơn, thị trường tự do đang mở rộng và đấu tranh mạnh chống lại sự kiểm soát, quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của kinh tế quốc doanh.
Tình hình đó làm cho đời sống của nhân dân lao động nhất là những người sống bằng tiền lương bị sút kém, việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 1957 bị khó khăn, và gây ảnh hưởng chính trị không tốt.”[13]
Để đối phó với tình hình đang xấu đi này, Bộ chính trị chỉ thị đảng phải huy động các nguồn lực và thực thi một số biện pháp, dù việc này chắc sẽ không gây được cảm tình của quần chúng.[14] (Trên thực tế, các biện pháp đó có nét giống với một số tội “bóc lột” mà đảng đã quy cho địa chủ trong hai thập kỷ qua). Những biện pháp đó gồm có “hăng hái đấu tranh chống” thất thu thuế nông nghiệp và công nghiệp, hạn chế số lượng tiền mặt lưu hành trên thị trường, hạn chế cho vay vốn nông nghiệp. Trong một nỗ lực nhằm giảm thiểu nhu cầu vật chất của nhân dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào hãy ghi nhớ những gian khổ hy sinh mà nhân dân Liên Xô đã chịu đựng trong suốt mười bốn năm cách mạng. Trình bày viễn kiến của mình về thời gian sắp tới trước một cử tọa gồm các “đại biểu nhân dân” ở Hải Phòng, lãnh tụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ôn nghèo kể khổ về quãng thời gian ông chứng kiến tại Liên Xô: “Đàn ông không cần cổ cồn, cravát, đàn bà không cần lòe loẹt; ô tô chỉ cần chạy chuyên chở được, tất cả là cốt để xây dựng đã. Và mua cái gì cũng có vé hết, bất kỳ bánh, thịt, vải, giày. Vì tinh thần hy sinh chịu khó, chịu khổ, thắt lưng buộc bụng và cách tổ chức mua bán như thế là hết đầu cơ tích trữ”.[15]
Trong hoàn cảnh kinh tế căng thẳng này, vào tháng Hai năm 1957, ngay sau kỳ nghỉ Tết, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ hai diễn ra trong tám ngày (từ ngày 20 đến ngày 27 tháng Hai) tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Trong ngày khai mạc, nhà lý luận văn hóa gạo cội của đảng, Trường Chinh đã đọc bức thư dài của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Hội nghị. Bức thư khẳng định “nền văn nghệ mới lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm phương pháp sáng tác tốt nhất.” nhưng vẫn đinh ninh “để phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật cách mạng, cần phát huy tự do sáng tác”.[16] Đại hội chứng kiến việc giải thể Hội Văn nghệ và thành lập một đoàn thể văn hóa mới, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Lãnh đạo đảng chỉ thị cho mỗi ngành văn hóa của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thành lập một hội riêng trong khuôn khổ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Xuân Diệu ở trong số mười lăm nhà văn và một vài nghệ sĩ từ các ngành nghệ thuật khác được “bầu” vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Vậy là sau hàng loạt các bài viết phanh phui những thủ đoạn vận động hậu trường để nâng đỡ tập thơ Ngôi sao xuất hiện trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm, dường như lãnh đạo đảng thấy cần phải vun xới lại uy tín cho Xuân Diệu và các lãnh đạo văn hóa cánh hữu khác từng chịu búa rìu phê phán của những trí thức bất mãn trong giai đoạn cuối năm 1956.
Bài diễn thuyết thứ nhất: “Bệnh sơ lược trong văn học” (ngày 26 tháng Hai năm 1957)
Bài tham luận của Xuân Diệu về “bệnh sơ lược trong văn học” tại Hội nghị Văn nghệ Toàn quốc lần thứ hai đáng được lưu ý vì đây là lần đầu tiên ông đăng đàn phát biểu về những vấn đề văn học gây tranh cãi trong thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Theo ý kiến đa số, Xuân Diệu có tài phát biểu trước công chúng, là một người thích đứng trước micro và biết vận dụng thuật hùng biện, như làm điệu bộ, ngắt nhịp, lên xuống giọng để gây hiệu ứng kịch tính.[17] Thử tưởng tượng xem các thành viên của Nhân văn – Giai phẩm, những người từng cộng tác hoặc chủ trương những ấn phẩm vừa bị đóng cửa ba tháng trước sẽ nghĩ như thế nào về Xuân Diệu khi họ ngồi ở trong Nhà hát Lớn nghe ông diễn thuyết: “Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược gây tai hại là làm cho người ta hiểu sai thực tế, tưởng cách mạng là toàn hồng, gây bệnh chủ quan và thiếu lý tưởng”.[18]
Về nguyên nhân của căn bệnh sơ lược trong văn học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Xuân Diệu vạch ra rằng “Nhưng có một số nhỏ người cho rằng bệnh sơ lược là do ở bản chất nền văn học mới của chúng ta, cũng như có người nói tệ sùng bái cá nhân là ở bản chất của chế độ Xô-viết. Gián tiếp họ muốn nói rằng: tại vì Đảng lãnh đạo nhúng tay vào văn học, nên văn học mới bị bệnh sơ lược, công thức như thế này; nếu cứ để Văn nghệ sĩ hoàn toàn tự do, thì Văn nghệ đã vô cùng phong phú”. Thay vì tiếp tục phân tích giả thuyết trên xem đúng sai ra sao, Xuân Diệu giải thích:
“…bệnh sơ lược không ở bản chất nền văn học mới chúng ta… chúng ta không độc quyền về bệnh sơ lược. Văn dở thì cổ kim đông tây, đời nào và ở đâu cũng có… Số người quy bệnh sơ lược ở Đảng và chế độ cũng thường trách Đảng và chế độ sinh ra bệnh công thức. Họ nói đến những con người máy, những người rập khuôn do chế độ ta sinh ra. Theo tôi nhớ, thì luận điệu này, bọn tư bản về đế quốc đưa ra đã lâu lắm rồi…”
Xuân Diệu cũng nói về cái mà mọi người thường gọi là văn hóa “rập khuôn” trong môi trường xã hội mới của cuộc cách mạng:
“Những con người máy đã phá kho bom Tân Sơn Nhất chăng? Bế Văn Đàn đã hy sinh rập khuôn với Phan Đình Giót chăng? Hay là trong phe xã hội chủ nghĩa, liệt sĩ Việt Nam Phan Đình Giót đã rập khuôn với anh hùng Liên Xô Matrosov, cũng lấy mình lấp lỗ châu mai một cách công thức chăng? Vâng, chúng ta rất giống nhau, chúng ta người nào cũng được Đảng giáo dục yêu nước yêu dân, cũng được Đảng dặn dò: khi cần thiết thì hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi dân tộc, […]. Vâng! Nếu có một cái khuôn nào, thì đó là một cái khuôn cao cả vĩ đại, phong phú, cái khuôn con người mới biết tự cường, chiến đấu, hy sinh!”
Ngoài ra, Xuân Diệu còn biện minh cho bệnh sáo mòn rất phổ biến trong văn học và nghệ thuật cách mạng: “Bệnh công thức của ta rất đáng ghét, nhưng động cơ của nó là muốn nói cái mới cái hay, chỉ vì thiếu nghiên cứu, thiếu sáng tạo mà rơi vào chỗ sáo, ít nhất là nó hảo ý; chứ còn cái công thức của tư sản phản động, của văn hóa Mỹ thì ác ý và ghê tởm vô cùng.”
Về cách chữa trị khả dĩ cho căn bệnh sơ lược, Xuân Diệu cảnh báo về sự tồn tại song hành của cả hai cách chữa chân chính và giả tạo, và khuyên thính giả phải cảnh giác với loại giả tạo: “Cách chữa giả tạo là dựa vào hình thức, vào kỹ thuật, tránh sự tẻ nhạt bằng cách bịa ra những trò chơi quái ác, bằng cách bẻ quặt thực tế khách quan […] Chữa giả tạo bằng cách quá đề cao cá tính siêu nhân của người Văn nghệ; bằng cách đem “tiếng sáo tiền kiếp” ra thổi giữa những bản đàn của thời đại mà mình cho là chán. Bằng cách phục hồi nguyên xi những ý tình cũ kỹ đã bị cách mạng thải ra. Chữa giả tạo trên hình thức bằng cách làm thơ leo thang hay xuống dốc, cắt nát câu thơ ra và xuống dòng nhiều quá sự cần thiết…”[19]
Trái lại, cách chữa “chân chính” là “nghiên cứu sâu thực tế cách mạng” vì “cái mới căn bản nằm trong đời sống cách mạng”. Xuân Diệu giảng tiếp “ta phải nói được cái mới căn bản đó, chứ không phải rơi vào một thứ ‘mới chủ nghĩa’, đi tìm những cái tính lập dị nào… Tôi tưởng tượng rằng: nếu bà Thị Điểm mà sống lại và viết một bản Chinh phụ ngâm mới về phong trào hoà bình thế giới hiện nay, thì Hồng Hà nữ sĩ cũng phải nghiên cứu đời sống quần chúng đau khổ gây ra bởi chiến tranh đế quốc. Nếu Nguyễn Du còn sống và muốn viết về cuộc đấu tranh và lao động hiện tại của nhân dân ta, Nguyễn Du cũng tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, và cũng phải thâm nhập vào quần chúng hiện tại!”[20] Ba tháng sau khi phong trào Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt, giọng văn bút chiến của Xuân Diệu đã phục hồi.
Bài thứ hai: “Viết sự thật” (tháng Tư năm 1957)
Chỉ một tháng sau, Xuân Diệu có bài diễn thuyết thứ hai tại hội nghị ra mắt Hội Nhà văn Việt Nam ngày mồng 1 tháng Tư năm 1957. Đối với các nhà văn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hội nhà văn là tổ chức thay thế cho Ban Văn thuộc Hội Văn nghệ vừa mới giải thể để chuyển thành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Hội riêng này của giới văn học cũng có tổ chức hội viên riêng, tờ báo riêng, nhà xuất bản riêng và ngân sách riêng. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không có gì lạ khi Hội Nhà văn, cũng như các chi hội khác của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật được thành lập và cơ cấu như một công cụ chính trị của đảng và nhà nước. Hội được giao độc quyền kiểm soát lĩnh vực chuyên môn, một đội ngũ văn phòng được trả lương và được nhà nước tài trợ để phát triển hoạt động trong toàn quốc. Điều ba trong Điều lệ Hội Nhà văn quy định mục đích của Hội như sau: “Trên cơ sở Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam đoàn kết mọi nhà văn yêu nước và tiến bộ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, xu hướng nghệ thuật”.
Bài diễn văn Xuân Diệu đọc tại hội nghị Hội Nhà văn vào tháng Tư, “Một vài ý kiến về viết sự thật”, được đăng lại trên báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng Tư năm 1957. Trong trích đoạn dưới đây, ta có thể tìm thấy cách lập luận biện hộ cho việc kiểm duyệt mà đảng vẫn tiếp tục áp dụng ở Việt Nam cho đến tận hôm nay:
“Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học, nên ta không phải là một người cầm cái máy ảnh tốt rồi bạ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn đi theo cái chủ nghĩa thành thật, vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật, mà có thiết tha thành thật thì mới hay được. Nhưng không phải những tình cảm nào thiết tha thành thật đều nên đưa vào thơ văn.”[21]
Tại sao phải như vậy? Theo Xuân Diệu, nhà văn vừa là “kỹ sư tâm hồn” vừa là “bác sĩ tâm hồn”. Vì vậy, họ phải đấu tranh không để cho những nỗi khổ tâm riêng của mình ảnh hưởng đến người khác, đồng thời phải tạo cảm hứng và dìu dắt (mọi người) theo các mục tiêu của đảng và nhà nước:
“Nhà văn hiện nên phát hiện nhiều vấn đề mới; nhưng nêu vấn đề ra, nếu chưa giải quyết dứt khoát được, thì ít nhất cũng bao hàm một hướng giải quyết, một thái độ giải quyết. Nếu chỉ nêu vấn đề rồi vứt giữa xã hội thì chỉ tổ gây hoang mang. Vào trong xã hội mà chỉ tin ở sự thành thật theo cảm tính của mình, thậm chí cố tình không mang theo những thứ mà mình cho là tầm thường, như lập trường, như đảng tính, v.v…, thì càng tưởng rằng viết theo sự thật lại càng sai lạc.”[22]
Trong đoạn này, Xuân Diệu thể hiện quan điểm về chức năng và tác dụng của văn học rập khuôn theo lý luận của lãnh đạo đảng đã đề ra trước đó. Trong phần sau của bài diễn văn, ông kết hợp lý luận này với những ý kiến phê bình Nguyễn Tuân gay gắt vì viết văn như “bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân” nhưng không “kê đơn bốc thuốc”. Xuân Diệu cũng lên án một số tác phẩm của Nhân văn – Giai phẩm mang đậm nét nhân văn của phong trào cùng tên, cụ thể như “Tiếng sáo tiền kiếp” của Trần Duy, “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Đạt và “Một trò chơi nguy hiểm” của Nguyễn Thành Long.[23]
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Điều thú vị là, hiện tượng đó đã xảy ra với giải thưởng năm 1951-1952, khi Tú Mỡ, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi đều tham gia tự trao giải cho mình. Xem “Kết quả giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952”, Văn nghệ, số 39, tháng 2/1953.
[2] Xem Xuân Diệu, “Đọc Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Văn nghệ, số 121, 17/5/1956. Maksim Gorky, “Nói về con người cũ và con người mới”, Xuân Diệu dịch và biên tập, Văn nghệ, số 146, 9/11/1956.
[3] Trong cùng số báo Văn nghệ đó, Trần Công, người đã phê phán Xuân Diệu, cũng viết một bài khen cuốn phim Liên Xô chuyển thể từ tiểu thuyết “Người mẹ” của Gorky.
[4] Về thời điểm Xuân Diệu chọn để đăng bài trở lại, ta không thể không ghi nhận sự ăn khớp giữa thời điểm tái xuất giang hồ của nhà thơ và văn bản cảnh cáo báo Nhân Văn vì đã vi phạm quy định báo chí. Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ban hành văn bản cảnh cáo nói trên vào ngày 8/11/1956 – bài của Xuân Diệu được đăng ngày 9/11/1956. Qua các mối quan hệ cấp cao của mình, có thể Xuân Diệu đã biết trước lãnh đạo đảng chuẩn bị ra văn bản cảnh cáo, một dấu hiệu khá chắc chắn báo trước số phận của Nhân Văn chỉ còn tính từng ngày.
[5] Nguyễn Chương, “Một vài điểm sai lầm chủ yếu trong báo Nhân Văn và tập Giai phẩm Mùa thu”, Nhân Dân, số 934, 25/9/1956.
[6] Trên báo Nhân Dân: Xuân Trường “Một thái độ phê bình không đúng, một quan niệm sai lầm về nghệ thuật”, số 935, 26/9/1956; xã luận “Dân chủ và chuyên chính”, số 979, 9/11/1956; Hoàng Xuân Nhị “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta”, số 955, 16/10/1956; Quang Đạm, “Củng cố và phát triển chế độ dân chủ của chúng ta”, số 989, 19/11/1956. Trên tạp chí Học Tập: Hồng Chương, “Chính trị và văn nghệ”, số 10, tháng 10/1956; Hồng Chương, “Thử bàn về tự do sáng tác”, số 11 & 12, tháng 12/1956. Phương Sơn, “Cần tiếp tục đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu và tiêu cực trong văn nghệ”, số 2, tháng 2/2957.
[7] Chu Thiên, “Phê bình Giai phẩm Mùa thu” và Lê Quang, “Đọc Nhân Văn số 1”, Văn nghệ, số 141, 4/10/1956; Lê Văn Hải, “Đọc bài ‘Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ’”, Văn nghệ, số 142, 11/10/1956; Lê Trung Thực, “Phê bình bài ‘Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ’của ông Trương Tửu”, Văn nghệ, số 144, 25/10/1956; Hồng Văn “Xung quanh nhóm Pơ-rô-lê-cun và các Nghị quyết về Văn Học của đảng”, Văn nghệ, số 149, 30/11/1956.
[8] Trong số đó, có thể kể Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Trần Lê Văn, Hữu Loan, Trần Duy, Trương Tửu, Bùi Quang Đoài, Tử Phác, Trần Công, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Nguyễn Viết Lãm, Hoàng Huế, Nguyễn Văn Tị, Nguyễn Bính, Thụy An, Nguyễn Sáng, Chu Ngọc, Sỹ Ngọc và Văn Cao.
[9] Xuân Trường, “Chống vu khống và xuyên tạc”, Nhân Dân, số 1010, 10/12/1956.
[10] Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập 3. Xem những đoạn, ví dụ như, ngày 14/2/1957, bàn về nhạc sĩ Văn Cao bị ám ảnh luôn có người theo dõi. Trong một đoạn khác, ghi ngày 23/3/1957 (tr.233), Nguyễn Huy Tưởng kể hai họa sĩ Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng bị từ chối khi đi xin việc, vì có tham gia Nhân văn – Giai phẩm.
[11] Hồ Chí Minh, “Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành”, Nhân Dân, số 896, 27/8/1956; “Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17: 562.
[12] So sánh, ví dụ như phong thái chậm chạp, lờ đờ và lưỡng lự khi chế độ triển khai phong trào hóa giải ảnh hưởng Stalin ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với tinh thần khẩn trương, quyết liệt và bạo tay khi thực hiện “chống chủ nghĩa xét lại” được tuyên bố vào cuối Hội nghị tháng 11/1957 ở Moscow. Chế độ cũng chưa từng cho phép một sự thảo luận công khai hướng đến bản chất tội ác của Stalin.
[13] “Nghị quyết của Bộ Chính trị: Số 17-NQ/TW, 4/6/1957 về việc đẩy mạnh công tác tiền tệ, tài chính và quản lý thị trường”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 18: 453.
[14] Trong bài viết ngày 3/2/1957 về tình hình chung ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Xuân Diệu tuyên bố rằng “củi, vải, thức ăn và hạnh phúc đang dần nhiều thêm”. Xem “Mùa xuân thắng”, Nhân Dân, số 1062, 3/2/1957.
[15] Hồ Chí Minh, “Nói chuyện với đại biểu nhân dân thành phố Hải Phòng”, Hồ Chí Minh Toàn Tập số 8, 1955-1957 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2009), 372.
[16] “Thư của ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai”, Nhân Dân, số 1081, 21/2/1957.
[17] Tô Hoài, Cát bụi chân ai, 199. Tô Hoài, người đi cùng Xuân Diệu nhiều lần trong các dịp nói chuyện, tả về phong cách diễn thuyết của nhà thơ như sau: “Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy, tám bài nói, nói khắp nước cũng chuyên tám cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhất mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười”.
[18] Xuân Diệu “Vài ý kiến về bệnh sơ lược”, Văn nghệ, số 162, 1/3/1957.
[19] Ngụ ý lối bắt chước cấu trúc thơ “xuống thang” theo phong cách nhà thơ Liên Xô nổi tiếng Vladimir Mayakovsky thường dùng.
[20] Xuân Diệu, “Vài ý kiến về bệnh sơ lược”.
[21] Xuân Diệu, “Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật”, Nhân Dân, số 1140, 21/4/1957.
[22] Xuân Diệu, bài đã dẫn.
[23] Trần Duy, “Tiếng sáo tiền kiếp”, Giai phẩm Mùa thu tập 1 (tháng 8/1956):54-63; Lê Đạt, “Nhân câu chuyện mấy người tự tử”, Nhân Văn, số 1, 20/8/1956, Nguyễn Thành Long, “Một trò chơi nguy hiểm”, in trong Xuân 1957 (Hà Nội, Văn nghệ, 1957).
No comments:
Post a Comment